Đầu máy Lớp 231 là dòng đầu máy hơi nước khổ mét được sử dụng trên Đường sắt Việt NamĐường sắt Campuchia.[1]

Đầu máy lớp 231
Đầu máy số hiệu 231-304
Loại và xuất xứ
Kiểu loạiĐầu máy hơi nước
Chế tạoSociété Alsacienne de Constructions Mécaniques
Thông số kỹ thuật
Khổ1.000 mm (3 ft 3 38 in)
Bánh dẫn động1.200 mm (47,24 in)
Xylanh2
Khai thác
Quản lý bởiTổng công ty Đường sắt Việt Nam

Việt Nam sửa

Có 3 phiên bản đầu máy hơi nước 4-6-2 khác nhau phục vụ tại Việt Nam: 231-301, 231-401 và 231-50. Ngoài ra còn có 231-A-001 nhưng đây dường như chỉ đơn giản là thuộc lớp 231-501.

231-301 sửa

Lớp 231.3 được SACM sản xuất vào năm 1932. Việc đánh số CFI dường như theo thứ tự thời gian, vì vậy có thể lớp 231-301 đến trước Lớp 231-401.

231-401 sửa

Những đầu máy xe lửa loại này được chế tạo bởi Hanomag (Hannoversche Maschinenfabrik) ở Hanover, Đức và được chuyển giao vào năm 1930 như một phần của sự bồi thường chiến tranh trong Thế chiến I.[2] Các phiên bản này rất giống nhau. đến một số 3 xi lanh 4-6-2 được cung cấp cho Đường sắt Hoàng gia Xiêm (RSR) vào năm 1928-29 từ cùng một nhà sản xuất, mặc dù họ chỉ có 2 xi lanh. Ví dụ, chúng có cùng kích thước bánh xe (1370 mm).

Đến cuối những năm 1960, chỉ còn 3 chiếc còn sót lại ở miền Nam là 402, 403 và 405, trong đó 402 và 403 nằm ở Dĩ An và được mô tả là "rác" trong khi 405 nằm ở Mương Mán và "có thể phục vụ được". Chúng nặng 124.400 lbs và có lực kéo 17.270 lbs.[3]

231-501 sửa

Những đầu máy kiểu này được chế tạo từ năm 1938 đến 1939 bởi SACM

Những đầu máy này được chuyển giao dưới dạng đầu máy đốt dầu và có trọng lượng 132.440 lbs có lực kéo 20.856 lbs.

231-A-001 sửa

Những đầu máy này được SACM chế tạo vào năm 1948-1949 và có vẻ giống với đầu máy 231-501..

231-A-003, 231-A-006 tại Tổng kho Nha Trang tháng 10 năm 1987.

Phục vụ sửa

Trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, nhiều chiếc đầu máy được vận chuyển đến Việt Nam.

Lớp 231 trong tình trạng được dỡ hàng tại cảng Sài Gòn. Chúng đang được dỡ xuống từ tàu "MV Bir-Hakeim" vào tháng 5 năm 1947. Vì vậy, có vẻ như ít nhất một số chiếc thuộc lớp 231-501 được chuyển giao sau chiến tranh. Chiến tranh đã làm gián đoạn việc giao đơn hàng 1938-39

Những đầu máy số hiệu 231-501, 231-505, 231-506, 231-507, 231-525, 231-534, 231-537, 231-545 và ít nhất 45 chiếc nữa thuộc lớp này được sử dụng ở Miền Nam Việt Nam vào năm 1968, trong đó có tuyến đường sắt Tháp Chàm phía Bắc Sài Gòn.[1][2]

Những đầu máy số hiệu 231-302, 231-309, 231-524, 231-525, 231-527, 231-528, 231-529, 231-530, 231-533 và 231-534 vẫn còn được thấy trên những bãi phế liệu ở Hà Nội vào cuối những năm 1980.[1]

Tại Việt Nam, Nhà máy Xe lửa Gia Lâm là đơn vị đầu tiên khôi phục đầu máy hơi nước 309 (Phúc Lợi) 231-309 ngày 1 tháng 5 năm 1959. Từ những năm 2000, đầu máy hơi nước chỉ còn chạy dồn ở các ga và chạy du lịch. Tới năm 2004 thì tất cả các đầu máy hơi nước không còn hoạt động.[4]

Campuchia sửa

231 Campuchia sửa

Những đầu máy tương tự đã được giao đến Campuchia.

7 đầu máy được chuyển từ Campuchia sang năm 1930 vì nhu cầu sử dụng đường sắt tại Việt Nam tăng cao.[5]

Hai đầu máy đã được ghi nhận ở Phnom Penh trong những năm 1970 được đánh số 231-502 và 231-509. Có tài liệu cho thấy đầu máy số hiệu 231-501. Có thể các đầu máy xe lửa đã được mua trong một đợt sau đó được phân bổ cho các bộ phận khác nhau của mạng lưới đường sắt Đông Dương.[1]

Thiết kế sửa

Đầu máy 231 thuộc lớp đầu máy hơi nước loại 4-6-2 Thái Bình Dương.

Có những điểm tương đồng với các lớp 141 và 230 (đặc biệt là lớp 141/ ZL) Những chiếc 231-501 và 141 của Pháp đều được chế tạo bởi SACM và một số bộ phận bao gồm lò hơi là chung cho cả hai lớp.[1]

Tham khảo sửa

  1. ^ a b c d e 231 Classes _Railways in Vietnam
  2. ^ a b Tạp chí Trains
  3. ^ "The Railways of Thailand". Tác giả R. Raemart
  4. ^ “Hồi sinh đầu máy hơi nước sau 50 năm ngừng chạy”. baogiaothong.vn. 13 tháng 9 năm 2019.
  5. ^ “An imperial railway failure: the Indochina-Yunnan railway, 1898-1941”.