Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chính thống giáo Đông phương”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Lùi sửa linh tinh
Thẻ: Lùi lại thủ công Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
n Đã hồi sửa 1 sửa đổi của 42.117.169.197 (talk) đến bản sửa đổi cuối cùng của P. ĐĂNG
Thẻ: Twinkle Lùi sửa
Dòng 1:
{{Infobox Christian denomination|icon=Slavic Cross Orthodox Cross Slav Cross Orthodoxy Cross.png|icon_width=30px|icon_alt=Byzantine cross|name=Giáo hội Chính thống giáo Đông phương|image=Church of St. George, Istanbul (August 2010).jpg|imagewidth=300px220px|caption=[[St. George's Cathedral, Istanbul|Nhà thờ Unspenskichính tạitòa Thánh George]], [[HeisinkiIstanbul]], [[PhầnThổ Nhĩ LanKỳ]]|type=[[Kitô giáo Đông phương]]|main_classification=Chính thống giáo Đông phương|structure=[[Koinonia#Between churches|Hiệp thông]]|scripture=[[Septuagint|Bản Bảy Mươi]], [[Tân Ước | Tân Ước Hi văn]]|theology=[[Chính thống giáo Đông phương#Giáo lý|Thần học Chính thống Đông Phương]]|polity=[[Giám mục]]|governance=|language=[[Tiếng Hy Lạp Koine]], [[Tiếng Slav Giáo hội]], và [[bản ngữ]]<ref name=vern1>{{Chú thích web |title=Eastern Orthodoxy – Worship and sacraments |url=https://www.britannica.com/topic/Eastern-Orthodoxy |access-date=2020-04-13 |website=Encyclopedia Britannica }}</ref><ref name=vern2>{{chú thích báo |last=Fiske |first=Edward B. |date=1970-07-03 |title=Greek Orthodox Vote to Use Vernacular in Liturgy |work=[[The New York Times]] |url=https://www.nytimes.com/1970/07/03/archives/greek-orthodox-vote-to-use-vernacular-in-liturgy-greek-orthodox.html |access-date=2020-04-13 |issn=0362-4331}}</ref><ref name=vern3>{{Chú thích web |title=Liturgy and archaic language {{!}} David T. Koyzis |url=https://www.firstthings.com/blogs/firstthoughts/2009/10/liturgy-and-archaic-language |access-date=2020-04-13 |website=First Things }}</ref>|liturgy=[[Nghi lễ Byzantine]] (chiếm đa số); có tồn tại [[Nghi lễ Phương Tây (Chính thống giáo)|Nghi lễ Phương Tây]]|area=[[Đông Nam Âu]], [[Đông Âu]], [[Bắc Á]], [[Cận Đông]], [[Cyprus]], [[Georgia (country)|Georgia]]<ref name=Pew20152016>{{Chú thích web |date=10 May 2017 |title=Religious Belief and National Belonging in Central and Eastern Europe |url=http://www.pewforum.org/2017/05/10/religious-belief-and-national-belonging-in-central-and-eastern-europe/ |website=Pew Research Center's Religion & Public Life Project}}</ref>|headquarters=|origin_link=|founder=[[Giê-su]] và truyền bá bởi [[Thánh Anrê]], theo <br />[[Thánh truyền]]|founded_date=[[Thế kỷ 1]], [[Đất Thánh]], [[Đế quốc La Mã]], theo [[Thánh Truyền]]|parent=|absorbed=|branched_from=|defunct=|congregations_type=|congregations=|members=220 triệu<ref name=Atlas>{{chú thích sách |last1=Brien |first1=Joanne O. |url=https://books.google.com/books?id=PbIwDwAAQBAJ&q=russian+orthodox+church+followers+membership+adherents+million&pg=PT12 |title=The Atlas of Religion |last2=Palmer |first2=Martin |date=2007 |publisher=University of California Press |isbn=978-0-520-24917-2 |page=22 |quote=There are over 220 million Orthodox Christians worldwide.}}</ref>|ministers_type=|ministers=|missionaries=|churches=|hospitals=|nursing_homes=|aid=|primary_schools=|secondary_schools=|tax_status=|tertiary=|leader_title=[[Primus inter pares#Eastern Orthodox Church|Primus inter pares]]|leader_name=[[Thượng phụ Đại kết thành Constantinopolis|Thượng phụ Đại kết thành]] [[Batôlômêô I của Constantinopolis|Bartholomew I]]}}'''Chính thống giáo Đông phương''' là nhánh [[Kitô giáo|Kitô giáo]] (Thiên Chúa giáo) lớn thứ nhì trên thế giới, sau [[Giáo hội Công giáo Rôma|Giáo hội Công giáo La Mã]]. Là một trong những định chế lâu đời nhất trên thế giới, Giáo hội Chính thống giáo Đông phương đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử và văn hóa [[Đông Âu]], [[Hy Lạp]], [[Nga]], [[Kavkaz]] và [[Cận Đông]]. Cấu trúc của Chính thống giáo Đông phương là một khối [[hiệp thông]] các giáo hội tự chủ, được cai quản bởi [[Thánh Công đồng]] bao gồm các [[giám mục]]. Chính thống giáo truy nguyên nguồn gốc của họ về Kitô giáo sơ khai, và tuyên bố họ mới là sự tiếp nối duy nhất và chính thống của giáo hội do Chúa Giêsu Kitô thiết lập, xem chính mình là [[Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền]]. ĐượcTrong thànhthiên lậpniên trongkỉ thếđầu kỷcủa đầuKitô tiêngiáo, Chính thống giáo Đông phương vẫn giữ[[Giáo sựhội kếCông cậngiáo Rôma|Công giáo Rôma]] cùng là một giáo hội, mặc dù có một số khác biệt giữa đông phươngtrungtây thànhphương. vớiVào truyền[[thế thốngkỷ Kitô11]], các khác biệt này dẫn đến cuộc [[Ly giáo banĐông–Tây]] đầunăm 1054, phân chia thành Chính thống giáo Đông phương và Công giáo Rôma.
{{Infobox Christian denomination|icon=Orthodox cross.svg|icon_width=30px|icon_alt=Byzantine cross|name=Giáo hội Chính thống giáo Đông phương|image=Uspenski Cathedral Helsinki 2012.jpg
[[Tập tin:The Descent Of The Holy Spirit.png|250px|nhỏ|phải|Các [[mười hai sứ đồ|tông đồ]] và mẹ [[Maria]] trong ngày lễ Ngũ Tuần.]]
|imagewidth=300px|caption=Nhà thờ Unspenski tại [[Heisinki]], [[Phần Lan]]|type=[[Kitô giáo Đông phương]]|main_classification=Chính thống giáo Đông phương|structure=[[Koinonia#Between churches|Hiệp thông]]|scripture=[[Septuagint|Bản Bảy Mươi]], [[Tân Ước | Tân Ước Hi văn]]|theology=[[Chính thống giáo Đông phương#Giáo lý|Thần học Chính thống Đông Phương]]|polity=[[Giám mục]]|governance=|language=[[Tiếng Hy Lạp Koine]], [[Tiếng Slav Giáo hội]], và [[bản ngữ]]<ref name=vern1>{{Chú thích web |title=Eastern Orthodoxy – Worship and sacraments |url=https://www.britannica.com/topic/Eastern-Orthodoxy |access-date=2020-04-13 |website=Encyclopedia Britannica }}</ref><ref name=vern2>{{chú thích báo |last=Fiske |first=Edward B. |date=1970-07-03 |title=Greek Orthodox Vote to Use Vernacular in Liturgy |work=[[The New York Times]] |url=https://www.nytimes.com/1970/07/03/archives/greek-orthodox-vote-to-use-vernacular-in-liturgy-greek-orthodox.html |access-date=2020-04-13 |issn=0362-4331}}</ref><ref name=vern3>{{Chú thích web |title=Liturgy and archaic language {{!}} David T. Koyzis |url=https://www.firstthings.com/blogs/firstthoughts/2009/10/liturgy-and-archaic-language |access-date=2020-04-13 |website=First Things }}</ref>|liturgy=[[Nghi lễ Byzantine]] (chiếm đa số); có tồn tại [[Nghi lễ Phương Tây (Chính thống giáo)|Nghi lễ Phương Tây]]|area=[[Đông Nam Âu]], [[Đông Âu]], [[Bắc Á]], [[Cận Đông]], [[Cyprus]], [[Georgia (country)|Georgia]]<ref name=Pew20152016>{{Chú thích web |date=10 May 2017 |title=Religious Belief and National Belonging in Central and Eastern Europe |url=http://www.pewforum.org/2017/05/10/religious-belief-and-national-belonging-in-central-and-eastern-europe/ |website=Pew Research Center's Religion & Public Life Project}}</ref>|headquarters=|origin_link=|founder=[[Giê-su]] và truyền bá bởi [[Thánh Anrê]], theo <br />[[Thánh truyền]]|founded_date=[[Thế kỷ 1]], [[Đất Thánh]], [[Đế quốc La Mã]], theo [[Thánh Truyền]]|parent=|absorbed=|branched_from=|defunct=|congregations_type=|congregations=|members=220 triệu<ref name=Atlas>{{chú thích sách |last1=Brien |first1=Joanne O. |url=https://books.google.com/books?id=PbIwDwAAQBAJ&q=russian+orthodox+church+followers+membership+adherents+million&pg=PT12 |title=The Atlas of Religion |last2=Palmer |first2=Martin |date=2007 |publisher=University of California Press |isbn=978-0-520-24917-2 |page=22 |quote=There are over 220 million Orthodox Christians worldwide.}}</ref>|ministers_type=|ministers=|missionaries=|churches=|hospitals=|nursing_homes=|aid=|primary_schools=|secondary_schools=|tax_status=|tertiary=|leader_title=[[Primus inter pares#Eastern Orthodox Church|Primus inter pares]]|leader_name=[[Thượng phụ Đại kết thành Constantinopolis|Thượng phụ Đại kết thành]] [[Batôlômêô I của Constantinopolis|Bartholomew I]]}}'''Chính thống giáo Đông phương''' là nhánh [[Kitô giáo|Kitô giáo]] (Thiên Chúa giáo) lớn thứ nhì trên thế giới, sau [[Giáo hội Công giáo Rôma|Giáo hội Công giáo La Mã]]. Là một trong những định chế lâu đời nhất trên thế giới, Giáo hội Chính thống giáo Đông phương đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử và văn hóa [[Đông Âu]], [[Hy Lạp]], [[Nga]], [[Kavkaz]] và [[Cận Đông]]. Chính thống giáo truy nguyên nguồn gốc Kitô giáo sơ khai, là sự tiếp nối duy nhất và chính thống của giáo hội do Chúa Giêsu Kitô thiết lập, xem chính mình là [[Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền]]. Được thành lập trong thế kỷ đầu tiên, Chính thống giáo Đông phương vẫn giữ sự kế cận và trung thành với truyền thống Kitô giáo ban đầu.
Tín hữu Chính thống giáo vẫn xem giáo hội của mình là truyền thống Kitô giáo trung thành nhất với các giá trị thần học bắt nguồn từ thời hội thánh tiên khởi. Giáo hội cấu trúc tổ chức bao gồm các giáo phận độc lập cùng chia sẻ một nền thần học, đặt dưới quyền cai quản của các Giám mục có nhiệm vụ bảo vệ các truyền thống giáo hội được lưu truyền từ [[Mười hai sứ đồ|Mười hai Sứ đồ]] qua quyền [[tông truyền]], đặc biệt là [[Thánh Anrê]].
 
GiáoTín hộihữu Chính thống giáo được xem giáo hội của họ là:
Cấu trúc của Chính thống giáo Đông phương là một khối [[hiệp thông]] các giáo hội tự chủ, được cai quản bởi [[Thánh Công đồng]] bao gồm các [[giám mục]]. Vào thế kỷ XI do có một số khác biệt giữa phương đông và phương tây cùng sự chia cắt làm hai của La Mã (Đông La Mã và Tây La Mã), các khác biệt này dẫn đến cuộc [[Đại ly giáo Đông–Tây]] năm 1054. Sự phân chia hình thành việc Công giáo được thành lập ở phía Tây, trong đó có Công Giáo La Mã.
 
[[Tập tin:Spas vsederzhitel sinay.jpg|250px|nhỏ|trái|Chúa Kitô, Tranh [[thế kỷ 6|thế kỷ thứ 6]]. Hình tượng cổ nhất về Chúa Giêsu Kitô được biết đến. Lưu trữ tại Sinai trong một trong những tu viện lâu đời nhất của Chính thống giáo]]
 
Tín hữu Chính thống giáo xem giáo hội của mình là truyền thống Kitô giáo trung thành nhất với các giá trị thần học bắt nguồn từ thời hội thánh tiên khởi. Giáo hội cấu trúc tổ chức bao gồm các giáo phận độc lập cùng chia sẻ một nền thần học, đặt dưới quyền cai quản của các Giám mục có nhiệm vụ bảo vệ các truyền thống giáo hội được lưu truyền từ [[Mười hai sứ đồ|Mười hai Sứ đồ]] qua quyền [[tông truyền]], đặc biệt là [[Thánh Anrê]].
 
Giáo hội Chính thống giáo được xem là:
*Hội thánh nguyên thủy được thiết lập bởi [[Giê-su|Chúa Giê-su Ki-tô]] và các sứ đồ.
*Giáo huấn và truyền thống giáo hội được bảo tồn bởi các tín hữu thời kỳ hội thánh sơ khai được lưu truyền từ các sứ đồ, cùng các truyền thống khác được phát triển sau này nhằm mở rộng và làm sáng tỏ các giáo huấn nguyên thủy.
Hàng 17 ⟶ 12:
 
== Cấu trúc ==
[[Tập tin:Reader ordination.jpg|thumb|250px300px|Nghi thức trao chức đọc sách tại một chủng viện Chính thống giáo Nga.]]
Chính thống giáo xem [[Cuộc đời Chúa Giê-xu theo Tân Ước|Chúa Giê-su]] là đầu của hội thánh và hội thánh là thân thể của ngài. Người ta tin rằng thẩm quyền và [[ân điển]] của [[Thiên Chúa]] được truyền trực tiếp xuống các [[Giám mục]] và chức sắc giáo hội qua việc đặt tay – một nghi thức được khởi xướng bởi các sứ đồ, và sự nối tiếp lịch sử liên tục này là yếu tố căn bản của giáo hội (Công vụ 8:17; 1Tim 4:14; Heb 6:2). Mỗi Giám mục cai quản giáo phận của mình. Nhiệm vụ chính của Giám mục là gìn giữ các truyền thống và quy tắc của giáo hội khỏi bị vi phạm. Các Giám mục có thẩm quyền ngang nhau và không được can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Về mặt hành chính, các Giám mục và các giáo phận được tổ chức thành các nhóm tự quản, trong đó các Giám mục họp ít nhất hai lần mỗi năm để bàn bạc về các vấn đề liên quan đến giáo phận của họ. Khi xuất hiện các học thuyết dị giáo, một "đại" công đồng được triệu tập qui tụ tất cả Giám mục. Giáo hội xem bảy công đồng đầu tiên (từ [[thế kỷ 4]] đến [[thế kỷ 8]]) là quan trọng nhất mặc dù các hội nghị khác cũng góp phần định hình quan điểm của Chính thống giáo. Những công đồng này không thiết lập giáo lý cho hội thánh nhưng chỉ so sánh các học thuyết mới với các xác tín truyền thống của giáo hội. Học thuyết nào không phù hợp với truyền thống giáo hội bị xem là dị giáo và bị loại trừ khỏi giáo hội. Các công đồng được tổ chức theo thể thức dân chủ dựa trên nguyên tắc mỗi Giám mục một lá phiếu. Dù được phép dự họp và phát biểu tại công đồng, quan lại triều đình Rôma hay [[Đế quốc Đông La Mã|Byzantine]], tu viện trưởng, [[linh mục]], tu sĩ hoặc tín đồ không có quyền bầu phiếu. Trước cuộc Đại Ly giáo năm 1054, Giám mục thủ đô [[Đế quốc La Mã|La Mã]], tức [[Giáo hoàng]], dù không có mặt tại tất cả công đồng, vẫn được xem là chủ tọa công đồng và được gọi là "Người đứng đầu giữa những người bình đẳng". Một trong những nghị quyết của công đồng thứ nhì, được khẳng định bởi các công đồng sau, là Giám mục thành Constantinople (Constantinople được xem là Rôma mới) được dành vị trí thứ hai. Sau khi tách khỏi Rôma, vị trí chủ tọa công đồng được dành cho [[Thượng phụ thành Constantinopolis]] với danh hiệu "Người đứng đầu giữa những người bình đẳng", thể hiện sự bình đẳng của chức vụ này trong phương diện hành chính và tâm linh. Người đảm nhiệm chức vụ này không được xem là đầu của hội thánh hoặc giáo chủ.