A Tế Cách

hoàng tử, nhà quân sự thời Thanh

Đây là một phiên bản cũ của trang này, do NhacNy2412 (thảo luận | đóng góp) sửa đổi vào lúc 08:58, ngày 26 tháng 10 năm 2019 (Tạo với bản dịch của trang “阿濟格”). Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang, có thể khác biệt rất nhiều so với phiên bản hiện hành.

(khác) ← Phiên bản cũ | Phiên bản mới nhất (khác) | Phiên bản mới → (khác)

A Tế Cách(chữ Mãn: ᠠᠵᡳᡤᡝ,âm Mãn: Azhige, chữ Hán: 阿濟格, bính âmAjige, 16051651), còn gọi là Anh Thân vương, là một Hoàng tử, Hoàng thân và nhà quân sự có ảnh hưởng thời kỳ đầu nhà Thanh.

A Tế Cách
阿濟格
Anh Thân vương
Thông tin chung
Sinh1605
Mất1651
Tước vịĐài cát → Bối lặc → Vũ Anh Quận vương → Anh Thân vương
Hoàng tộcÁi Tân Giác La
Thân phụNỗ Nhĩ Cáp Xích
Thân mẫuThanh Thái Tổ Đại phi

Những năm trước khi nhập quan, ông góp phần quan trọng trong quá trình tấn công biên cảnh Minh triều và Triều Tiên. Đến khi quân Thanh nhập quan, với tư cách là quân tiên phong, A Tế Cách cùng với Đa Nhĩ Cổn tiến vào Bắc Kinh. -1651

Thân thế

A Tế Cách sinh ngày 15 tháng 7 (âm lịch) năm Minh Vạn Lịch thứ 39 (1605). Ông là con trai thứ 12 của của thủ lĩnh người Nữ Chân Nỗ Nhĩ Cáp Xích, và là con trai đầu tiên của Đại phi A Ba Hợi. Ông có 2 người em ruột là Đa Nhĩ Cổn (thứ 14) và Đa Đạc (thứ 15).

Sự nghiệp

Những năm Thiên Mệnh

A Tế Cách" trong tiếng Mãn nghĩa là "nhỏ". Ông có phần được Nỗ Nhĩ Cáp Xích sủng ái. Thê tử đầu tiên của Hoàng Thái Cực là Nữu Hỗ Lộc thị, bởi vì khi gặp A Tế Cách không chịu hạ kiệu mà bị cha chồng là Nỗ Nhĩ Cáp Xích hạ lệnh hưu ly.

Ông được nhận định là lớn lên "Thân trường trượng dư, yêu phúc thậm đại" [1] , kiêu dũng thiện chiến, được phong là Đài Cát (台吉) [2].

Năm Thiên Mệnh thứ 10 (1625), theo Bối lặc Mãng Cổ Nhĩ Thái chinh phạt Sát Cáp Nhĩ bộ, truy đến Nông An Tháp, Lâm Đan hãn bỏ chạy [3] .

Năm Thiên Mệnh thứ 11 (1626), ông cùng với Đài cát Thạc Thác thảo phạt Khách Nhĩ Khách Ba Lâm bộ, lại theo Bối lặc Đại Thiện chinh phạt Trác Lỗ Đặc bộ. Cả hai trận chiến ông đều lập nhiều công lao, được thụ phong Bối lặc [4].

Những năm Thiên Thông

Thiên Thông nguyên niên (1627), A Tế Cách cùng với Bối lặc A Mẫn tấn công Triều Tiên, liên tục đánh hạ 5 thành trì. Sau lại theo Hoàng Thái Cực phạt Minh, cùng với Mãng Cổ Nhĩ Thái bảo vệ đường vận chuyển luơng thảo tại Tháp Sơn. Hội quân ở Cẩm Châu, áp sát Ninh Viễn và quân Minh hơn ngàn người đang hạ trại, đào chiến hào, sắp xếp hỏa khí ở phía trước, nhưng bị A Tế Cách tiêu diệt toàn bộ. [5]

Minh triều Tổng binh Mãn Quế xuất thành bày trận, Hoàng Thái Cực muốn tấn công ngay lập tức, nhưng bị chư vị Bối lặc ngăn lại vì lý do khoảng cách với thành trì quá gần, chỉ duy nhất A Tế Cách xin theo. Hoàng Thái Cực liền đốc thúc A Tế Cách nhanh chóng đánh bại kỵ binh Minh triều, chư vị Bối lặc đều lấy làm hổ thẹn, vì vậy chưa kịp mặc áo giáp đã tiến lên xung phong liều chết, quân Minh tử thương hơn một nửa [5].

Năm Thiên Thông thứ 2 (1628), vì tự ý chủ trì hôn lễ của Đa Đạc, ông đã bị tước đi tước vị, sau này lại được khôi phục. [6]

Năm Thiên Thông thứ 3 (1629), A Tế Cách cùng Tế Nhĩ Cáp Lãng tấn công Cẩm ChâuNinh Viễn và thiêu rụi toàn bộ lương thực tích trữ của quân Minh tại đây, lại bắt giữ được hơn 3.000 người. Ông lại theo Hoàng Thái Cực phạt minh, tham gia "Kỷ tỵ chi biến", kiềm chế Long Tỉnh quan, hạ thành Hán Nhi Trang, tấn công Hồng Sơn khẩu. Tiến quân đến Tuân Hóa, tấn công và tiêu diệt Tổng binh nhà Minh Triệu Suất giáo. Quân đội áp sát kinh đô nhà Minh, Viên Sùng HoánTổ Đại Thọ đem 2 vạn quân tới cứu viện, đóng quân bên ngoài Quảng Cừ môn. Quân Hậu Kim truy trục quân Minh, tiếp cận chiến hào, chiến mã của A Tế Cách bị thuơng nên mới lui binh. [5]

Sau A Tế Cách cùng A Ba Thái xâm lược Thông Châu, đến Trương Gia loan. Lại theo Hoàng Thái Cực tuần Kế Châu, gặp được viện binh Sơn Hải quan 5 ngàn người. A Tế Cách cùng Đại Thiện đột nhập trận địa của địch, đại phá quân Minh. [5]

Năm Thiên Thông thứ 4 (1630), A Tế Cách lại theo đại quân phạt Minh, đến Quảng Ninh, hội quân tại Đại Lăng Hà. Trong đêm vây Cẩm Châu, quân Minh đánh lén quân doanh của A Tế Cách lại gặp phải sương mù dày đặt cản tầm nhìn. A Tế Cách dàn trận địa sẵn sàng đón địch, đợi đến khi sương mù tản ra thì lập tức tập kích, bắt giữ được một Phó tướng của quân Minh, thu được giáp giới cùng ngựa hơn 200. [5]

Hoàng Thái Cực đích thân đến, bàn bạc kế hoạch vây công thành. Nghe được tin quân Minh tăng viện binh, Hoàng Thái Cực lệnh cho Dương Cổ Lợi thống lĩnh một nửa Bát kỳ quân Ba Nha Lạt đến tăng cường lực lượng. Em trai của Tổ Đại ThọTổ Đại Bật bởi đem kỵ binh tham dò tiến về phía trước, Hoàng Thái Cực đích thân mặc giáp chiến đấu, A Tế Cách chạy đến, phấn khích đánh lui quân Minh, chặt đầu một Phó tướng của quân Minh. Hoàng Thái Cực liền đem quân giao cho A Tế Cách, Giám Quân đạo Trương Xuân đem 4 vạn cứu binh đến, lại chiến đấu tại Đại Lăng Hà, chặn giết hơn một nửa quân Minh, truy đuổi quân Minh suốt 40 dặm về phía Bắc. [5]

Năm Thiên Thông thứ 6 (1632), A Tế Cách lại theo đại quân thảo phạt Sát Cáp Nhĩ, Lâm Đan Hãn bỏ trốn. Hoàng Thái Cực thay đổi hướng của đại quân, trước tiên tấn công Minh triều, lệnh cho A Tế Cách lãnh đạo cánh quân bên trái và binh lính Mông Cổ tấn công Đại Đồng và Tuyên Phủ, thu được toàn bộ tài vật được cất trữ lại Trương Gia Khẩu. [5]

Năm Thiên Thông thứ 7 (1633), tháng 3, xây dựng Thông Thiên bảo, A Tế Cách đem quân đến đóng giữ. Tháng 5, cùng với Tế Nhĩ Cáp Lãng và Đỗ Độ nghênh đón hàng tướng Khổng Hữu Đức, chống cự quân Minh của Đông Giang Tổng binh Hoàng Long cùng quân đội Triều Tiên.

Tháng 6, Hoàng Thái Cực trưng cầu ý kiến của các đại thần về việc đánh Minh triều, Triều Tiên, Sát Cáp Nhĩ, nên đánh địa phương nào trước, A Tế Cách cho rằng trước nên đánh quân Minh. Được như nguyện, A Tế Cách cùng A Ba Thái tiến đánh Sơn Hải Quan, Hoàng Thái Cực hạ chỉ chất vấn tại sao không chịu thâm nhập tiến quân, A Tế Cách trả lời "Ta muốn dừng lại ở chỗ này, tích góp lương thực, nhưng chư Bối lặc không chịu nghe a". Hoàng Thái Cực liền trách: "Nếu ngươi kiên trì không đi, chư Bối lặc còn có thể vứt bỏ ngươi ở lại rồi đi hay sao?".[5]

Năm Thiên Thông thứ 8 (1634), ông lại theo đại quân thảo phạt Minh triều, cùng Đa Nhĩ Cổn, Đa Đạc, 3 anh em cùng nhau nhập Long Môn khẩu, đánh hạ Bảo An Châu, Linh Khâu. [7]

Những năm Sùng Đức

Sùng Đức nguyên niên (1636), A Tế Cách được phong Đa la Vũ Anh Quận vương (多罗武英郡王). Cùng Nhiêu Dư Bối lặcA Ba TháiDương Cổ Lợi phạt minh, từ Điêu Ngạc bảo nhập Trường An lĩnh, áp sát Duyên Khánh. Vượt qua Đảo Định đến An Châu, và đánh hạ Xương Bình, Định Hưng, An Túc, Bảo Trì, Đông An, Hùng, Thuận Nghĩa, Dung Thành và Văn An chư huyện, lớn nhỏ hơn 56 trận đánh, bắt sống cả người và súc vật hơn 10 vạn. A Tế Cách phái nhóm người Cố Sơn Ngạch Chân Đàm Thái bố trí mai phục, chém được tướng thủ thành của 3 quân doanh Tuân Hoá, giành được hơn một trăm bốn mươi con ngựa. Khi trở về, Hoàng Thái Cực đích thân ra ngoài 10 dặm nghênh đón, thấy A Tế Cách vì vất vả mà thân thể gấy yếu, đã vì ông mà rơi lệ, đích thân rót rượu hỏi thăm. Tháng 12, Khi Hoàng Thái Cực tấn công Triều Tiên, ông đã ra lệnh cho A Tế Cách thủ vệ Ngưu Trang. [8]

Năm Sùng Đức thứ 2 (1637), Thạc Thác nhiều lần tấn công không hạ được Bì Đảo. A Tế Cách nhanh chóng đem quân đến, 2 đường thuỷ bộ nhanh chóng đánh hạ. Hoàng Thái Cực phái người đến khen ngợi và ban thưởng. [9]

Năm Sùng Đức thứ 4 (1639), ông lại theo đại quân phạt Minh. A Tế Cách tuyên bố muốn sử dụng Hồng y đại pháo để tấn công, lính thủ thành cực kỳ sợ hãi, 4 dặm đồn trú, đồn Trương Cương, Bảo Lâm tự, đồn Vượng Dân, đồn Vu Gia, Thành Hoá dụ, Đạo Nhĩ Chương chư đài đều bị đánh hạ. Lại hồi quân thủ hộ Tháp Sơn, Liên Sơn và bắt hơn ngàn người. Một lần nữa cùng A Ba Thái tấn công Cẩm Châu và Ninh Viễn. [10]

Tập tin:Tùng Cẩm đại chiến.jpg
Đại chiến Tùng Cẩm [11]

Năm Sùng Đức thứ 6 (1641), diễn ra Đai chiến Tùng Cẩm. A Tế Cách cùng Tế Nhĩ Cáp Lãng, Đa Đạc vây công Cẩm Châu. Bọn người giữ thành Đài cát Mông Cổ Ngô Ba Thập thương nghị với nhau dâng thành đầu hàng. Sau khi Tổ Đại Thọ biết được sự việc liền tấn công binh lính Mông Cổ, A Tế Cách trong đêm đem quân viện trợ, quân Minh đại bại và hàng quân Mông Cổ được đưa đến nghĩa châu. A Tế Cách liên tục đánh bại quân Minh, được thưởng bạc bốn ngàn. [12]

Cùng năm tháng 3, Hồng Thừa Trù suất chư tướng Vương Phát, Ngô Tam Quế viện trợ Cẩm Châu, tổng quân 13 vạn. Hoàng Thái Cực đích thân đến giám quân, hạ trại ở Tùng Sơn. Quân Minh chạy đến Tháp Sơn, A Tế Cách liền đem quân truy kích, thu được toàn bộ lương thảo tại Bút Giá Sơn, lại cùng Đa Nhĩ Cổn tấn công bốn thành trì của địch, bắt được bọn tướng quân Minh là Vương Hi Hiền. Quân Minh vẫn ở Cẩm Châu, Tùng Sơn, Hạnh Sơn và Cao Kiều, Hoàng Thái Cực hồi Thịnh Kinh, ra lệnh cho A Tế Cách Đỗ Độ và Đa Đạc tiến hành vây công. Hồng Thừa Trù thừa dịp ban đêm, đem quân ra khỏi Tùng Sơn, tập kích quân Thanh, A Tế Cách đốc quân hoàn xạ quân Minh. Quân Minh đại bại muốn rút lui nhưng cửa thành đóng chặt không ra được, hơn 2 ngàn quân liền xin hàng. [13]

Năm Sùng Đức thứ 7 (1642), A Tế Cách mang quân vây công Hạnh Sơn, lại phái quân đội tấn công Ninh Viễn. Ngô Tam Quế dùng 4 trăm người đóng giữ ở Tháp Sơn, Cao Kiều, không đánh đã lui, quân Minh tan tác tứ phía, A Tế Cách đại bại quân Minh. [14]

Năm Sùng Đức thứ 8 (1643), A Tế Cách lại cùng Tế Nhĩ Cáp Lãng tấn công Ninh Viễn, quân Thanh bắn pháo vào thành Bắc, tường thành sụp đổ mà phá được; lại tấn công vào thành Tây, trảm Minh Tổng binh Lý Phụ Minh, Viên Thượng Nhân cùng hơn 30 tướng lĩnh, giết hơn 4 ngàn quân Minh, Tổng binh Hoàng Sắc bỏ thành chạy trốn. [15]

Những năm Thuận Trị

Thuận Trị nguyên niên (1644), A Tế Cách đại quân nhập quan, đại bại quân Đại Thuận của Lý Tự Thành trong Đại chiến Sơn Hải Quan. A Tế Cách được phong là Anh Thân vương, ban thưởng 2 bộ yên ngựa. [16][17]

Sau, ông được phong làm Tĩnh Viễn Đại Tướng quân, từ biên ngoại vào Thiểm Tây, chặt đứt đường lui của Lý Tự Thành. 8 trận toàn thắng, đánh hạ 4 thành trì và hàng phục được 38, thế như chẻ tre. Cùng lúc đó, đạo quân của Đa Đạc đại thắng quân Đại Thuận ở Sơn Hải quan, Lý Tự Thành buông tha Tây An trốn đi Thương Châu. Đa Nhĩ Cổn lệnh cho A Tế Cách kết hợp với Đa Đạc tạo thành thế Nam-Bắc giáp công, thảo phạt Lý Tự Thành. Lý Tự Thành liền bỏ chạy về phía Nam, đem theo tàn binh chạy về Nam Kinh. A Tế Cách đem quân đuổi theo, đuổi đến Đặng Châu, lại đến Thừa Thiên, Đức An, Vũ Xương, Phú Trì Khẩu, Tang Gia Khẩu, Cửu Giang, liên tục phá địch. Lý Tự Thành bỏ trốn rồi bị giết chết, Kiêu tướng của quân Đại Thuận là Lưu Tông Mẫn bị chém, quân sư Tống Hiến Sách bị bắt. Chính quyền Đại Thuận đến đây diệt vong. [18]

Năm Thuận Trị thứ 2 (1645), Tả Mộng Canh, con trai tướng quân nhà Minh Tả Lương Ngọc, đang đóng quân ở Cửu Giang, quân Thanh giết đến, liền suất lĩnh 10 vạn binh mã cùng nhiều chiến thuyền đến xin hàng. Quân Thanh lần lượt chiếm 12 thành Hà Nam, 39 thành Hồ Quảng, mỗi 6 thành ở Giang Tây và Giang Nam, tổng cộng 63 thành trì. [19]

Tin chiến thắng được báo về triều, Thuận Trị đế cử người mang chiếu đến thăm hỏi và gọi đại quân A Tế Cách hồi kinh, chiếu viết: [20]

Chiếu chỉ chưa kịp đến, A Tế Cách đã mang quân khải hoàn, ngày 4 tháng 8 thì về đến Kinh sư. Duệ Thân vương Đa Nhĩ Cổn bắt đầu tính toán toàn bộ tội lỗi của A Tế Cách, ngoại trừ việc không đợi chiếu đã thu quân, còn có báo láo về cái chết của Lý Tự Thành, uy hiếp quan viên địa phương, tự ý lấy ngựa của Ngạc Nhĩ Đa Tư và Thổ Mặc Đặc, lại thêm tội gọi Thuận Trị đế là "Nhụ tử". Gộp tất cả tội lỗi lại, A Tế Cách bị giáng xuống Anh Quận vương, nhưng không lâu sau lại được khôi phục tước vị Thân vương. [21][22]

Năm Thuận Trị thứ 5 (1648), A Tế Cách đem quân đi đánh dẹp nạn thổ phỉ ở Thiên Tân. Mùa đông năm đó, Đại Đồng Tổng binh Khương Tương đào ngũ phản Thanh, A Tế Cách được phong Bình Tây Tướng quân, suất lĩnh nhóm người Cố Sơn Ngạch Chân Ba Nhan đem quân đi thảo phạt. [23]

Năm Thuận Trị thứ 6 (1649), Khương Tương cùng thuộc tướng Lưu Thiên đã đem quân xâm phạm Đại Châu và A Tế Cách liền phái Bác Lạc trước đi cứu viện, vây khốn Lưu Thiên rồi mới giải vây. [24]

Đa Nhĩ Cổn đích thân đến Đại Đồng tham thị đại quân. Thời điểm đó, hai vị Phúc tấn của A Tế Cách bệnh mất, Đa Nhĩ Cổn lệnh ông trở về chủ trì gia sự. A Tế Cách nói:

A Tế Cách ỷ mình lập nhiều quân công, nói với Đa Nhĩ Cổn rằng:

Đa Nhĩ Cổn trách A Tế Cách quá cuồng vọng, liền lệnh không để ông tham dự vào sự vụ lục bộ và giao tiếp với Hán quan. [25]

Ngày 28 tháng 8, Khương Tương bị thuộc cấp là Dương Chấn giết chết. Dương Chấn đem quân quy thuận quân Thanh. Ngày kế, A Tế Cách đem quân vào thành, phá huỷ tường thành của Đại Đồng rồi mới lui binh. [26]

Năm Thuận Trị thứ 7 (1650), tháng 12, Đa Nhĩ Cổn hoăng ở Hách Lạt thành. A Tế Cách thừa dịp này cùng con trai Lao Thân uy hiếp tướng sĩ dưới quyền Đa Nhĩ Cổn nghe theo mình, muốn mưu đoạt chính quyền nhưng thất bại.

Ngày 26 tháng 12, Nghị Chính vương đại thần hội nghị luận tội A Tế Cách. A Tế Cách bị u cấm, con ông là Lao Thân bị cách đi tước Quận vương, hàng làm Bối tử. Sau khi bị giam, A Tế Cách không những không thu liễm tính tình mà còn càng ngày càng cuồng bạo, trong phòng giam tư tàng đại đao, bí mật đào địa đạo, tuyên bố muốn hoả thiêu phòng giam.

Năm Thuận Trị thứ 8 (1651), ngày 16 tháng 10 cùng năm, A Tế Cách bị ban cho tự tử trong ngục giam, bị trừ đi tông tịch, con trai là Lao Thân cũng bị ban chết cùng lúc. Xét thấy con trai thứ 2 của A Tế Cách là Phó Lặc Hách vô tội, lại có công, được phép nhập lại tông thất. [27]

Năm Càn Long thứ 43 (1778), con cháu của ông, bao gồm cả Bá Nhĩ Tốn và những nhánh khác lại được đưa vào tông phổ.

Tướng mạo

Liên quan đến tướng mạo của A Tế Cách, người Nhật có một bản ghi chi tiết hơn trong《 Thát Đát phiêu lưu ký 》 :

Thê thiếp

Đích phúc tấn

  • Đích phúc tấn: Tây Lâm Giác La thị, con gái Hỗ Tân (祜新).
  • Kế phúc tấn: Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị, thuộc Khoa Nhĩ Thấm bộ, con gái của Bỉnh Đồ Quận vương Khổng Quả Nhĩ (孔果洛). Bà là em gái của Thọ Khang Thái phi và chị em họ với Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu.

Thiếp:

  • Lý thị, con gái Lý Sĩ Hưng (李士兴).
  • Du thị, con gái Du Xuân Nhân (愉春仁).

Hậu duệ

A Tế Cách có tất cả 12 con trai, trong đó có 3 người có tước vị: Hòa Độ, Phó Lặc Hách, Lao Thân. Hòa Độ được phong bối tử, mất sớm. Lao Thân cùng bị ban chết với A Tế Cách. [28]

Trưởng tử Hoà Độ (和度)

Cố sơn Bối tử. Sinh vào giờ Hợi ngày 19 tháng 11 (âm lịch) năm Thiên Mệnh thứ 4 (1619), mẹ là Tây Lâm Giác La thị; mất ngày 7 tháng 10 (âm lịch) năm Thuận Trị thứ 3 (1646), thọ 27 tuổi, vô tử nữ.

  • Đích Phu nhân: Trát Lỗ Đặc thị, con gái Thường Khởi Bố (常起布)

Thứ tử Phó Lặc Hách (傅勒赫)

Truy phong Phụng ân Trấn quốc công. Sinh vào giờ Tuất ngày 16 tháng 12 (âm lịch) năm Thiên Thông thứ 2 (1628), mẹ là Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị. Sơ phong Trấn quốc công. Sau bị đoạt tước, tước đi tông tịch. Mất ngày 3 tháng 4 năm Thuận Trị thứ 17 (1660), thọ 33 tuổi. Năm 18 (1661), dụ Phó Lặc Hách vô tội, phục tông tịch. Khang Hi nguyên niên (1662), truy phong Trấn quốc công.

  • Thê thiếp:
    • Đích thê: Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị, thuộc Khoa Nhĩ Thấm bộ, con gái Trác Lý Khắc Đồ Thân vương Ngô Khắc Thiện (吴克善).
    • Kế thê: Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị, con gái Đài cát Bật Hán Tang Cát Nhĩ (弼汉桑噶尔塞)
  • Hậu duệ:
    • Trường tử: Lỗ Khắc Độ (鲁克度).
    • Thứ tử: Phụng ân Phụ quốc công Cấu Tư (构孳)
    • Tam tử: Dĩ cách Phụ quốc công Xước Khắc Thác (绰克讬).

Tam tử Lao Thân (劳亲)

Dĩ cách Đa la Quận vương. Năm sinh không rõ (khoảng năm Thiên Thông thứ 2 ~ 5), mẹ không rõ tính danh. Ngày 16 tháng 10 năm Thuận Trị thứ 8 (1651) bị ban chết trong ngục. Con cái không rõ.

Tứ tử Bá Nhĩ Tốn (伯尔逊)

Sinh vào giờ Dậu ngày 3 tháng 1 (âm lịch) năm Thiên Thông thứ 5 (1631), mẹ là thiếp không rõ tính danh, mất giờ Mão ngày 28 tháng 9 (âm lịch) năm Khang Hi thứ 14 (1675), thọ 45 tuổi.

  • Đích thê: Nữu Hỗ Lộc thị, con gái Nhị đẳng Thị vệ Tề Thái (齐泰).
  • Thiếp:
    • Điền thị, con gái Điền Nhị (田二).
    • Lý thị, con gái Lý Đạt (李达).
    • Kim thị, con gái Kim Duy Tư (金惟孜).
    • Vương thị, con gái Vương Đạt (王达).
  • Hậu duệ
    • Trường tử: Khôi Cách (魁格).
    • Thứ tử: Quan Đồ (关图).
    • Tam tử: A Nhĩ Bác (阿尔博).
    • Tứ tử: A Nhĩ Tấn (阿尔晋).
    • Ngũ tử: La Khắc Đa Hoan (罗克多欢).
    • Lục tử: A Nhĩ Đan (阿尔丹).
    • Thất tử: Đồ Cát (图吉).
    • Bát tử: Đặc Thanh Ngạch (特清额).
    • Cửu tử: Tác Đức (索德).
    • Thập tử: Đồ Lan Thái (图兰泰).

Ngũ tử Môn Trụ (门柱)

Sinh vào giờ Tuất ngày 18 tháng 5 (âm lịch) năm Thiên Thông thứ thứ 7 (1633), mẹ là thiếp không rõ tính danh, mất ngày 13 tháng 8 (âm lịch) năm Thiên Thông thứ 9 (1635) lúc 3 tuổi.

Lục tử Lâu Thân (楼亲)

Dĩ cách Hòa thạc Thân vương. Sinh vào giờ Tuất ngày 19 tháng 9 (âm lịch) năm Thiên Thông thứ 8 (1634), mẹ là Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị; ngày 4 tháng 10 năm Thuận Trị thứ 8 (1651) bị ban cho tự vẫn, 28 tuổi. Vô tử nữ.

Thất tử Mặc Nhĩ Tốn (墨尔逊)

Sinh vào giờ Tý ngày 22 tháng 6 (âm lịch) năm Thiên Thông thứ 9 (1635), mẹ là Bác Nhĩ tế Các Đặc thị; không rõ năm mất. Vô tử nữ.

  • Đích thê: Qua Nhĩ Giai thị, con gái Đô thống Hòa Nhạc Đồ (和岳图).

Bát tử Tác Nhĩ Khoa (索尔科)

Sinh vào giờ Tý ngày 25 tháng 1 (âm lịch) năm Sùng Đức thứ 5 (1640), mẹ là Lý thị, mất ngày 16 tháng 5 năm Sùng đức thứ 7 (1642).

Cửu tử Đông Tắc

Sinh vào giờ Dậu ngày 20 tháng 3 (âm lịch) năm Sùng Đức thứ 6 (1641), mẹ là thiếp tính danh không rõ, mất ngày 9 tháng 10 năm Khang Hy thứ 40 (1701), 61 tuổi.

  • Đích thê: Ngạc Trác thị, ngạc hải chi nữ;
  • Thiếp
    • Vương thị, con gái Vương Đạt (王达).
    • Trương thị, con gái Trương Tường (张祥).
  • Hậu duệ:
    • Trường tử: Vân Tú (云秀).
    • Thứ tử: Vân Trang (云庄).
    • Tam tử: Thường Minh Châu (常明珠).

Thập tử Hô Lễ

Sinh vào giờ Ngọ ngày 7 tháng 7 (âm lịch) năm Sùng Đức thứ 6 (1641), mẹ là thiếp không rõ tính danh. Năm mất là không rõ, vô tử nữ.

Thập nhất tử Ngạc Bái

Sinh vào giờ Ngọ ngày 1 tháng 2 (âm lịch) năm Sùng Đức thứ 8 (1643), mẹ là thiếp không rõ tính danh, mất ngày 1 tháng 8 năm Khang Hy thứ 28 (1689), 47 tuổi.

  • Đích thê Quách Lạc La thị, con gái Tán Kỵ lang A Hải (散骑郎阿海
  • Dắng thiếp:
    • Lý thị, con gái Lý Tam (李三).
    • Trương thị, con gái Trương Tự Phúc (张自福).
  • Thiếp:
    • Kiều thị, con gái Kiều Đại (乔大).
  • Hậu duệ
    • Trường tử: Vân Đại (云岱).
    • Thứ tử: Thuận Đại (顺岱).
    • Tam tử: Khoa Bái (科拜).
    • Tứ tử: Dũng Ái (勇蔼).
    • Ngũ tử: Thiệu Thái (绍泰).
    • Lục tử: Thao Hải (韬海).
    • Thất tử: Phật Thái (佛泰).
    • Bát tử: Thao Thái (韬泰).
    • Cửu tử: Thư Nhĩ Hồng Ngạch (舒尔洪额).
    • Thập tử: Long Đại (隆岱).
    • Thập Nhất tử: Quan Thuận (观顺).

Thập nhị tử Ban Tiến Thái

Sinh vào giờ Mão ngày 22 tháng 4 (âm lịch) năm Thuận Trị nguyên niên (1644), mẹ là thiếp không rõ tính danh, mất ngày 15 tháng 7 năm Khang Hy thứ 45 (1706), ở tuổi 63.

  • Đích thê: Nạp Lạt thị, con gái Thị vệ Ban Lĩnh Thư Thục (班领舒淑).
  • Dắng thiếp: Tào thị, con gái Tào Đạt (曹达).
  • Ba người phụ:
    • Trường tử: Mục Sở (穆楚).
    • Thứ tử: Ngạch Nhĩ Canh Ngạch (额尔庚额).
    • Tam tử: Ngạch Nhĩ Định Ngạch (额尔庚额).

Con gái

A Tế Cách có một người con gái gả cho Nạp Lan Minh Châu và sinh được 3 con trai, người con trai cả là Nạp Lan Tính Đức nhà thơ nổi tiếng vào đầu triều đại nhà Thanh. Cháu đời thứ 4 là Hô Bát (瑚玐) nhậm chức Lý Sự quan. Con trai Hô Bát, Đôn Mẫn chính là bạn của Tào Tuyết Cần .

Chú thích

  1. ^ 《 承政院日记 》, 仁祖十五年四月二十六日条.
  2. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 阿济格,太祖第十二子。初授台吉。 Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  3. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 天命十年, 从贝勒莽古尔泰伐察哈尔, 至农安塔. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  4. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 十一年, 偕台吉硕托伐喀尔喀巴林部, 复从贝勒代善伐紥鲁特, 皆有功, 授贝勒 Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  5. ^ a b c d e f g h “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 天聪元年, 偕贝勒阿敏伐北韩, 克五城. 从上伐明, 偕莽古尔泰卫塔山粮运. 会师锦州, 薄宁远, 明兵千余人为车营, 掘壕, 前列火器, 阿济格击歼之. 总兵满桂出城阵, 上欲进击, 诸贝勒以距城近, 谏不可, 独阿济格请从. 上督阿济格驰击明骑兵至城下, 诸贝勒皆惭, 奋不及胄, 亦进击其步军, 明兵死者大半. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp) Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “:0” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  6. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 二年, 以擅主弟多铎婚, 削爵, 寻复之. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  7. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. Truy cập 八年, 从伐明, 克保全, 拔灵丘.. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |access-date= (trợ giúp)
  8. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 崇德元年, 进武英郡王. 偕饶余贝勒阿巴泰及扬古利伐明, 自雕鹗堡入长安岭, 薄延庆. 越保定至安州, 克昌平, 定兴, 安肃, 宝坻, 东安, 雄, 顺义, 容城, 文安诸县, 五十六战皆捷, 俘人畜十余万. 又遣固山额真谭泰等设伏, 斩遵化三屯营守将, 获马百四十余. 得优旨, 赐鞍马一. 师还, 上迎劳地载门外十里, 见阿济格劳瘠, 为泪下, 亲酌金卮劳之. 上伐北韩, 命守牛庄. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  9. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 二年, 硕托攻皮岛未下, 阿济格督所部水陆并进, 克之. 上遣使褒劳. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  10. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 四年, 从伐明, 阿济格扬言欲以红衣炮攻台, 守者惧, 四里屯, 张刚屯, 宝林寺, 旺民屯, 於家屯, 成化峪, 道尔彰诸台俱下. 寻还守塔山, 连山, 俘人马千计. 复偕阿巴泰略锦州, 宁远. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  11. ^ “Tùng Cẩm đại chiến”. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  12. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 六年, 偕济尔哈朗围锦州. 守郛蒙古台吉吴巴什等议举城降, 祖大寿觉之, 击蒙古兵, 阿济格夜登陴助战, 明兵败, 徙蒙古降者於义州. 屡击败明兵, 赐银四千. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  13. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 洪承畴率诸将王朴, 吴三桂等援锦州, 号十三万. 上亲视师, 营松山. 明兵奔塔山, 阿济格追击之, 获笔架山积粟, 又偕多尔衮克敌台四, 擒明将王希贤等, 朴, 三桂仅以身免. 明兵犹守锦州, 松山, 杏山, 高桥诸地, 上还盛京, 命阿济格偕杜度, 多铎等围之. 承畴夜出松山袭我军, 阿济格等督众环射之, 明兵败还, 城闭不得入, 其众二千皆降. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  14. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 七年, 围杏山, 遣军略宁远. 三桂以四千人驻塔山, 高桥, 不战而退, 纵兵四击, 又迭败之. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  15. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 214, Liệt truyện tứ”. 八年, 复偕济尔哈朗攻宁远, 军城北, 布云梯发炮, 城圮, 克之; 抵前屯卫, 攻城西, 斩馘四千余, 明总兵黄色弃城遁, 复克之. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  16. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 顺治元年, 从入关破李自成, 进英亲王, 赐鞍马二. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  17. ^ “Đại Thanh Thế Tổ Chương Hoàng đế thực lục, Quyển 10”. 丁卯. 上御皇极门加封和硕郑亲王济尔哈朗为信义辅政叔王赐册宝黄金千两白金万两彩缎千疋复和硕肃亲王豪格爵. 赐册宝. 鞍马二. 空马八. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  18. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 命为靖远大将军, 自边外入陕西, 断自成归路, 八战皆胜, 克城四, 降城三十八. 时自成为多铎所败, 弃西安走商州. 诏多铎趋淮, 扬, 而命阿济格率师讨自成. 自成南走, 众尚二十万, 规取南京. 阿济格以师从之, 及於邓州, 复南至承天, 德安, 武昌, 富池口, 桑家口, 九江, 屡破敌, 自成走死, 斩其将刘宗敏, 俘宋献策. 宗敏, 自成骁将; 献策, 自成所倚任, 号军师者也. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  19. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 明将左良玉子梦庚方驻军九江, 师至, 执总督袁继咸等, 率马步兵十万, 舟数万, 诣军门降. 是役凡十三战, 下郡县: 河南十二, 湖广三十九, 江西, 江南皆六. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  20. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 捷闻, 上使赴军慰劳, 诏曰: "王及行间将士驰驱跋涉, 悬崖峻岭, 深江大河, 万有余里, 劳苦功高. 寇氛既靖, 宜即班师. 其招抚余兵, 或留或散, 王与诸大臣商榷行之." Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  21. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 诏未至, 阿济格率师还京师. 睿亲王多尔衮责阿济格不候诏班师, 又自成未死时, 先以死闻, 遣人数其罪; 又在午门张盖坐, 召而斥之. 覆议方出师时, 胁宣府巡抚李鉴释逮问赤城道朱寿 錅 及擅取鄂尔多斯, 土默特马, 降郡王. 寻复之. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  22. ^ “Thanh Thái Tổ Chương Hoàng đế thực lục, quyển 20”. 丁未. 先是和硕英亲王阿济格出征时. 胁令巡抚李鉴, 释免逮问赤城道朱寿 錅. 又擅至鄂尔多斯土默特地方取马. 至是法司议罪. 阿济格, 应削王爵. 夺所属仆众. 量给人役, 以供使令. 又从前曾遣薰阿赖赍谕, 令固山额真谭泰, 会同护军统领鳌拜巴图鲁, 学士额色黑, 将英王称上为孺子之语, 集众传示. 而谭泰徇王情面, 并不集众传示. 又擅至鄂尔多斯土默特地方, 索取马匹. 应将谭泰革职. 藉其家. 鳌拜听信谭泰, 不行集众, 传示谕辞. 应革职. 罚银一百两. 额色黑, 因系内院官随征, 原令不时启发王意. 乃竟信谭泰, 不遵谕行. 应革职. 鞭一百. 谳具, 启知摄政王, 辅政王. 王谕, 英亲王降为郡王. 罚银五千两. 固山额真谭泰, 削公爵. 降为昂邦章京. 解固山额真任. 令赎身. 鳌拜, 罚银一百两. 此番功绩, 不准议叙. 额色黑, 鞭一百. 折赎. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  23. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 五年, 剿天津, 曹县土寇. 十一月, 率师驻大同, 姜镶叛, 督兵讨之. 旋命为平西大将军, 率固山额真巴颜等讨镶. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  24. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 六年, 镶将刘迁犯代州, 遣博洛赴援, 围乃解. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  25. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 多尔衮至大同视师, 时阿济格两福晋病卒, 命归视, 阿济格曰: "摄政王躬摄大政, 为国不遑, 吾敢以妻死废国事?" 阿济格自以功多, 告多尔衮曰: "辅政德豫亲王徵流寇至庆都, 潜身僻地, 破潼关, 西安不歼其众, 追腾机思不取, 功绩未着, 不当优异其子. 郑亲王乃叔父之子, 不当称 『 叔王 』. 予乃太祖之子, 皇帝之叔, 宜称 『 叔王 』." 多尔衮斥其妄, 令勿预部务及交接汉官. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  26. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 寻复偕巩阿岱攻大同, 会降将杨振威斩镶降, 隳其城睥睨五尺, 乃还. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  27. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 八年正月, 多尔衮薨於喀喇城, 阿济格赴丧次, 诸王夜临, 独不至, 召其子郡王劳亲以兵胁多尔衮所属使附己. 丧还, 上出迎, 阿济格不去佩刀. 劳亲兵至, 阿济格张纛与合军. 多尔衮左右讦阿济格欲为乱, 郑亲王济尔哈朗等遣人於路监之. 还京师, 议削爵, 幽禁. 逾月, 覆议系别室, 籍其家, 诸子皆黜为庶人. 十月, 监守者告阿济格将於系所举火, 赐死. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  28. ^ “Thanh Sử Cảo, Quyển 217, Liệt truyện tứ”. 阿济格子十一, 有爵者三: 和度, 傅勒赫, 劳亲. 和度, 封贝子, 先卒. 劳亲与阿济格同赐死. 傅勒赫, 初封镇国公. 坐夺爵, 削宗籍. 十八年, 谕傅勒赫无罪, 复宗籍. 康熙元年, 追封镇国公. 子构孳, 绰克都, 并封辅国公. 绰克都, 事圣祖. 从董额讨王辅臣, 守汉中, 攻秦州, 师无功. 授盛京将军, 又以不称职, 夺爵. 上录阿济格功, 以其子普照仍袭辅国公, 坐事夺爵, 以其弟经照仍袭辅国公. 雍正间, 普照亦以军功复爵, 卒. 世宗谕曰: "普照军前效力, 且其兄女为年羹尧妻, 故特予封爵. 今羹尧负恩诛死, 此爵不必承袭." 居数年, 经照亦坐事, 夺爵. 普照, 经照皆能诗. 乾隆四十三年, 命阿济格之裔皆复宗籍. 经照子孙递降, 以奉恩将军世袭. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp); line feed character trong |quote= tại ký tự số 51 (trợ giúp)

Tham khảo

  • "Thanh hoàng thất tứ phổ"
  • " Thanh Sử Cảo ", quyển 217, Liệt truyện tứ, Chư vương tam
  • " Thanh Sử Cảo ", quyển 162, Biểu nhị, Hoàng tử biểu nhị