Huệ Thân vương

tước vị Thân vương nhà Thanh

Đây là một phiên bản cũ của trang này, do NhacNy2412 (thảo luận | đóng góp) sửa đổi vào lúc 10:54, ngày 3 tháng 9 năm 2020 (Tạo với bản dịch của trang “惠親王”). Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang, có thể khác biệt rất nhiều so với phiên bản hiện hành.

(khác) ← Phiên bản cũ | Phiên bản mới nhất (khác) | Phiên bản mới → (khác)

Hòa Thạc Huệ Thân vương (chữ Hán: 和碩惠親王, tiếng Mãn: ᡥᠣᡧᠣᡳ
ᡶᡠᠯᡝᡥᡠᠨ
ᠴᡳᠨ ᠸᠠᠩ
, Möllendorff: Hošoi fulehun cin wang), là tước vị Thân vương thế tập truyền đời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.

Khái quát

Thủy tổ của Huệ vương phủ là Miên Du - Hoàng tử thứ năm của Gia Khánh Đế.

Năm Gia Khánh thứ 25 (1820), Miên Du được phong làm Huệ Quận vương. Năm Đạo Quang thứ 9 (1829) tấn phong Huệ Thân vương. Sau khi qua đời, Miên Du được truy thụy "Đoan".

Vì Huệ vương phủ không phải Thiết mạo tử vương nên các đời sau tập tước đều lần lượt bị hàng xuống một bậc. Tổng cộng truyền qua 3 thế hệ.

Ý nghĩa phong hiệu

Phong hiệu ["Anh"] của Miên Du, Mãn ngữ là「fulehun」, nghĩa là "Ân huệ", "Ân điển".

Chi hệ

Miên Du có tất cả sáu con trai, trong đó ba người con đầu đều chết yểu, vì vậy Huệ vương phủ chỉ còn lại ba chi hậu duệ. Trong ba chi hậu duệ, con trai thứ tư của Miên Du là Dịch Tuân do Trắc Phúc tấn Tạ Giai thị sinh ra, con trai thứ năm Dịch Tường do Kế Phúc tấn Qua Nhĩ Giai thị sinh ra, con trai thứ sáu Dịch Mô do Trắc Phúc tấn Dương Giai thị sinh ra, vì vậy Đại tông được truyền cho đích xuất duy nhất là Dịch Tường. Ngoài ra, Dịch Tường và Dịch Mô đều có được tước vị Nhập bát phân, trở thành Tiểu tông. Vì vậy Huệ vương phủ có ba chi hậu duệ đều là Nhập bát phân, điểm này hết sức đặc thù.

Nhưng Dịch Tuân không có con trai, nhận hậu duệ của Du Quận vương Dận Vu làm con thừa tự, chính là Tái Trạch nổi tiếng thời Vãn Thanh. Về phần một mạch Dịch Mô, cũng không có hậu duệ nam kế thừa, quá kế Tái Tể từ Đại tông sang kế thừa, kết quả vừa xuất kế 2 tháng Tái Tể liền qua đời, ngay sau đó lại phải từ Du vương phủ quá kế Phổ Cát làm người thừa tự. Vì vậy mặc dù ba chi hậu duệ của Huệ vương phủ đều là Nhập bát phân, nhưng hai trong ba chi đã do hậu duệ của Du vương phủ kế thừa.

Địa vị

Trong ba chi hậu duệ của Gia Khánh, địa vị của Huệ vương phủ vốn không cao, nhưng vì nguyên nhân cả ba chi hậu duệ của Huệ vương phủ đều Nhập bát phân, địa vị thời Vãn Thanh xem như không tệ. Đặc biệt là Đôn vương phủThụy vương phủ về sau đều do Biệt tông thừa kế, chân chính kế thừa huyết mạch của Gia Khánh chỉ có Huệ vương phủ mà thôi[1].

Kỳ tịch

Sau khi Huệ vương phủ nhập kỳ, được phân tại Hữu dực Cận chi Tương Lam kỳ đệ nhất tộc, cùng tộc với Trực vương phủ (hậu duệ Dận Thì), Thận vương phủ (hậu duệ Dận Hi), Khánh vương phủ (hậu duệ Vĩnh Lân) và Cung vương phủ (hậu duệ Dịch Hân)

Huệ Thân vương

  1. Huệ Đoan Thân vương Miên Du 1814 - 1820 - 1865
  2. Huệ Kính Quận vương (hàm Thân vương) Dịch Tường (奕詳) 1849 - 1865 - 1886
  3. Bối lặc Tái Nhuận (載潤) 1878 - 1886 - 1963

Dịch Tuân chi hệ

Dịch Tường chi hệ

Dịch Mô chi hệ

Tái Đào chi hệ

  • 1893 - 1902 năm: Bất nhập bát phân Trấn quốc công Tái Đào (載濤), con trai thứ bảy của Dịch Hoàn, con trai nuôi của Dịch Mô. Năm 1893 thừa tự Dịch Mô, sơ phong Nhị đẳng Trấn quốc Tướng quân, năm 1894 tiến Bất nhập Bát phân Trấn quốc công, năm 1898 gia hàm Bối tử, đổi thành thừa tự Dịch Hỗ.

Tái Tể chi hệ

  1. ^ Về sau Đôn vương phủ và Thụy vương phủ đều do hậu duệ của Đạo Quang Đế kế thừa, coi như là huyết mạch của Đạo Quang Đế