Cừu Roussin Hague là một giống cừu của Pháp có nguồn gốc từ phía bắc của eo biển Anh. Chúng là giống cừu cổ xưa và được đánh giá cao về khả năng thích nghi với khí hậu của chúng.

Roussin de la hague

Lịch sử sửa

Đây là một giống cừu rất cổ xưa, mà sự hiện diện trong vùng đồng cỏ Norman được chứng thực từ thế kỷ XVIII và nó đã là chủ đề của việc lai tạp khác nhau của các chủng tộc cừu của cư dân Anglo-Saxon, trước khi được chính thức công nhận vào cuối năm 1980. Nó rất phù hợp với khí hậu gió của bờ biển Đại Tây Dương của đồng cỏ, nơi chúng vẫn còn sống chủ yếu cho đến ngày nay.

Các giống địa phương của Bắc eo biển, trong khu vực Hague, sinh ra trong thế kỷ thứ mười tám từ một hỗn hợp của các giống địa phương và cừu Ouessant, lần đầu tiên chúng được lai vào năm 1920 với cừu Dishley và cho cừu South Down để tăng chất lượng thịt của nó. 40 năm sau, những chúng tiếp tục được lai một lần nữa với cừu Suffolk. Năm 1978, các nhà lai tạo tạo ra một liên kết đến một sự công nhận chính thức trong năm 1982, một ngày rất muộn trong mối quan hệ với các giống cừu cổ xưa này.

Đặc điểm sửa

Chúng là một giống cừu đầy đặn, chiều cao của cừu đo 65–70 cm, nặng 70–90 kg và thông số của con đực là 70–75 cm và 100–130 kg. Nó là giống cừu có toàn thân màu trắng với một cái đầu màu nâu và đôi chân và không đeo sừng. Trán là không có len, cừu đực có đôi mắt sắc nét và tai dựng đứng. Chúng không đòi hỏi, đặc biệt phù hợp với khí hậu ẩm ướt và gió của bờ biển Đại Tây Dương. Nó có thể phát triển đất khá nghèo và là nồng độ muối cao, nhưng nó nuôi trên các đồng cỏ màu mỡ của Cotentin để có thể khai thác khả năng tối đa của nó.

 

Cừu Hague là dễ nuôi do tính khí bình tĩnh và ngoan ngoãn. Nó cung cấp hiệu suất sinh sản cao, chúng là giống cừu thành thục sớm, 61% con cái sinh trước tuổi 15 tháng. Nó vẫn còn trong nôi xuất xứ của nó, ở phía bắc của tỉnh Manche, mà đang tập trung giữa 7 và 8 000 000 cừu sinh sản. Nó có len màu trắng và đầu và chân màu đỏ. Các con cừu cái rất mẹ và có sản xuất sữa tốt, chúng được nuôi dưỡng trong giống thuần chủng hoặc lai tạo với giống cừu thịt để cải thiện hình dáng của con chiên.

Trán chúng phẳng, xương mũi lồi ra, chúng có hố nước mắt, mõm của chúng mỏng, môi hoạt động, răng cửa sắc, nhờ đó chúng có thể gặm được cỏ mọc thấp và bứt được những lá thân cây mềm mại, hợp khẩu vị trên cao để ăn. Chúng có thói quen đi kiếm ăn theo bầy đàn, tạo thành nhóm lớn trên đồng cỏ. Trong da chúng có nhiều tuyến mồ hôi và tuyến mỡ hơn dê. Bởi thế chúng bài tiết mồ hôi nhiều hơn và các cơ quan hô hấp tham gia tích cực hơn vào quá trình điều tiết nhiệt.

Chăn nuôi sửa

Chúng có tính bầy đàn cao nên dễ quản lý, chúng thường đi kiếm ăn theo đàn nên việc chăm sóc và quản lý rất thuận lợi. Chúng cũng là loài dễ nuôi, mau lớn, ít tốn công chăm sóc. So với chăn nuôi bò thì chúng là vật nuôi dễ tính hơn, thức ăn của chúng rất đa dạng, thức ăn của chúng là những loại không cạnh tranh với lương thực của người. Chúng là động vật có vú ăn rất nhiều cỏ.

 

Hầu hết chúng gặm cỏ và ăn các loại cỏ khô khác, tránh các phần thực vật có gỗ nhiều. Chúng có chế độ hoạt động ban ngày, ăn từ sáng đến tối, thỉnh thoảng dừng lại để nghỉ ngơi và nhai lại. Đồng cỏ lý tưởng cho chúng như cỏ và cây họ Đậu. Khác với thức ăn gia súc, thức ăn chính của chúng trong mùa đông là cỏ khô.

Chúng là loài ăn tạp, có thể ăn được nhiều loại thức ăn bao gồm thức ăn thô xanh các loại như: rơm cỏ tươi, khô, rau, củ quả bầu bí các loại, phế phụ phẩm công nông nghiệp và các loại thức ăn tinh bổ sung như cám gạo ngũ cốc. Mỗi ngày chúng có thể ăn được một lượng thức ăn 15-20% thể trọng. Chúng cần một lượng thức ăn tính theo vật chất khô bằng 3,5% thể trọng. Với nhu cầu 65% vật chất khô từ thức ăn thô xanh (0,91 kg) và 35% vật chất khô từ thức ăn tinh (0,49 kg). Khi cho chúng ăn loại thức ăn thô xanh chứa 20% vật chất khô và thức ăn tinh chứa 90% vật chất khô.

Nguồn nước uống là nhu cầu cơ bản của chúng. Lượng nước cần cho chúng biến động theo mùa và loại và chất lượng thực phẩm mà chúng tiêu thụ. Khi chúng ăn nhiều trong các tháng đầu tiên và có mưa (kể cả sương, khi chúng ăn vào sáng sớm), chúng cần ít nước hơn. Khi chúng ăn nhiều cỏ khô thì chúng cần nhiều nước. Chúng cũng cần uống nước sạch, và có thể không uống nếu nước có tảo hoặc chất cặn. Trong một số khẩu phần ăn của chúng cũng bao gồm các khoáng chất, hoặc trộn với lượng ít.

Chăm sóc sửa

Sau khi cho phối giống 16-17 ngày mà không có biểu hiện động dục lại là có thể cừu đã có chửa, Căn cứ vào ngày phối giống để chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu (thời gian mang thai của cừu 146-150 ngày) nhằm hạn chế cừu sơ sinh bị chết; Có thể bồi dưỡng thêm thức ăn tinh và rau cỏ non cho cừu có chửa nhưng tuyệt đối tránh thức ăn hôi mốc; Khi có dấu hiệu sắp đẻ (bầu vú căng, xuống sữa, sụt mông, âm hộ sưng to, dịch nhờn chảy ra, cào bới sàn…) nên nhốt ở chuồng riêng có lót ổ rơm và chăn dắt gần, tránh đồi dốc.

Thông thường cừu mẹ nằm đẻ nhưng cũng có trường hợp đứng đẻ, tốt nhất nên chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu; Sau khi đẻ cừu mẹ tự liếm cho con. Tuy nhiên, vẫn phải lấy khăn sạch lau khô cho cừu con, nhất là ở miệng và mũi cho cừu con dễ thở. Lấy chỉ sạch buộc cuống rốn (cách rốn 4–5 cm), cắt cuống rốn cho cừu con và dùng cồn Iod để sát trùng; Giúp cừu con sơ sinh đứng dậy bú sữa đầu càng sớm càng tốt (vì trong sữa đầu có nhiều kháng thể tự nhiên); Đẻ xong cho cừu mẹ uống nước thoải mái (có pha đường 1% hoặc muối 0.5%).

Cừu con trong 10 ngày đầu sau khi đẻ cừu con bú sữa mẹ tự do; Từ 11-21 ngày tuổi cừu con bú mẹ 3 lần/ngày, nên tập cho cừu con ăn thêm thức ăn tinh và cỏ non, ngon; 80-90 ngày tuổi có thể cai sữa. Giai đoạn này phải có cỏ tươi non, ngon cho cừu con để kích thích bộ máy tiêu hóa phát triển (đặc biệt là dạ cỏ) và bù đắp lượng dinh dưỡng thiếu hụt do sữa mẹ cung cấp không đủ; Cừu sinh trưởng và phát triển nhanh, mạnh ở giai đoạn này.

Tham khảo sửa

  • Roussin de la Hague, site des races domestiques françaises, Département des Sciences Animales d'AgroParisTech et France UPRA Sélection
  • Le Standard de la race Roussin de la Hague » [archive] (consulté le 8 mars 2011)
  • « Dans la Manche, le Roussin de la Hague, productif et autonome », Patre, 15 juillet 2005 (lire en ligne [archive])
  • « Race ovine Roussin de la Hague » [archive] (consulté le 8 mars 2011)
  • Budiansky, Stephen (1999). The Covenant of the Wild: Why animals chose domestication. Yale University Press. ISBN 0-300-07993-1.
  • Ensminger, Dr. M.E.; Dr. R.O. Parker (1986). Sheep and Goat Science, Fifth Edition. Danville, Illinois: The Interstate Printers and Publishers Inc. ISBN 0-8134-2464-X.
  • Pugh, David G. (2001). Sheep & Goat Medicine. Elsevier Health Sciences. ISBN 0-7216-9052-1.
  • Simmons, Paula; Carol Ekarius (2001). Storey's Guide to Raising Sheep. North Adams, MA: Storey Publishing LLC. ISBN 978-1-58017-262-2.
  • Smith M.S., Barbara; Mark Aseltine PhD; Gerald Kennedy DVM (1997). Beginning Shepherd's Manual, Second Edition. Ames, Iowa: Iowa State University Press. ISBN 0-8138-2799-X.
  • Weaver, Sue (2005). Sheep: small-scale sheep keeping for pleasure and profit. 3 Burroughs Irvine, CA 92618: Hobby Farm Press, an imprint of BowTie Press, a division of BowTie Inc. ISBN 1-931993-49-1.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  • Wooster, Chuck (2005). Living with Sheep: Everything You Need to Know to Raise Your Own Flock. Geoff Hansen (Photography). Guilford, Connecticut: The Lyons Press. ISBN 1-59228-531-7.