Cephalopholis polleni

loài cá

Cephalopholis polleni là một loài cá biển thuộc chi Cephalopholis trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1868.

Cephalopholis polleni
Cá con
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Serranidae
Phân họ (subfamilia)Epinephelinae
Chi (genus)Cephalopholis
Loài (species)C. polleni
Danh pháp hai phần
Cephalopholis polleni
(Bleeker, 1868)
Danh pháp đồng nghĩa
Danh sách
    • Epinephelus polleni Bleeker, 1868
    • Plectropoma lineatum Bliss, 1883
    • Cephalopholis virgatus Fourmanoir, 1955
    • Gracila okinawae Katayama, 1974

Từ nguyên sửa

Từ định danh được đặt theo tên của François Pollen, nhà tự nhiên họcthương gia người Hà Lan, người đã thu thập mẫu định danh của loài cá này với nhà thám hiểm Douwe Casparus van Dam.[1]

Phạm vi phân bố và môi trường sống sửa

 
Van Dam và Pollen (chụp khoảng năm 1865)

C. polleni có phân bố không liên tục ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Madagascar và các đảo quốc lân cận trải dài về phía đông đến quần đảo LinePolynésie thuộc Pháp,[2][3] xa nhất về phía bắc là đảo Okinawa (Nhật Bản).[4]

C. polleni chủ yếu được tìm thấy trên rạn san hô ở ngoài khơi các đảo, độ sâu khoảng từ 10 đến ít nhất là 120 m (nhưng ít khi được nhìn thấy ở độ sâu nông hơn 30 m).[5]

Mô tả sửa

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở C. polleni là 43 cm.[6]

Cá trưởng thành có màu vàng, phớt màu xanh lục hoặc nâu ở vài cá thể. Có nhiều sọc ngang màu xanh tím trên thân, 2-3 sọc trên cùng đứt đoạn và lan rộng đến vây lưng. Đầu cũng có các sọc xanh, với một vệt dài ở hàm trên. Vây bụng vàng, có sọc xanh.[4]

Cá con (khoảng 4 cm) màu vàng nâu, chuyển sang màu tím ở bụng và vàng tươi ở gốc vây đuôi, lan rộng đến hai thùy đuôi. Mõm màu vàng, có một đốm đen ở trước lỗ mũi. Cá con non lớn hơn (10 cm) màu nâu cam, các sọc màu tím bắt đầu xuất hiện trên đầu và thân.[4]

Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 14–16; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–9; Số tia vây ở vây ngực: 17–19; Số vảy đường bên: 66–72.[4]

Sinh học sửa

Thức ăn của C. polleni là các loài cá nhỏ và động vật giáp xác. Chúng thường bơi ngược trên vòm các hang hốc.[6]

Thương mại sửa

C. polleni có kích thước quá nhỏ để đạt giá trị thương mại trong ngành thủy sản, nhưng có lẽ là một loài cá cảnh có giá trị.[4]

Tham khảo sửa

  1. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Perciformes: Suborder Serranoidei (part 5)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2022.
  2. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Epinephelus polleni. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2022.
  3. ^ Parenti, Paolo; Randall, John E. (2020). “An annotated checklist of the fishes of the family Serranidae of the world with description of two new related families of fishes”. FishTaxa. 15: 55–56. ISSN 2458-942X.
  4. ^ a b c d e Phillip C. Heemstra & John E. Randall (1993). “Cephalopholis” (PDF). Vol.16. Groupers of the world (Family Serranidae, Subfamily Epinephelinae). Roma: FAO. tr. 54–55. ISBN 92-5-103125-8.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  5. ^ Craig, M. T. (2018). Cephalopholis polleni. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2018: e.T132805A100457007. doi:10.2305/IUCN.UK.2018-2.RLTS.T132805A100457007.en. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2022.
  6. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Cephalopholis polleni trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.