HMS Champion là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp tàu tuần dương C của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, và thuộc về lớp phụ Calliope. Champion được chế tạo bởi hãng đóng tàu Hawthorn Leslie and Company. Nó được đặt lườn vào ngày 9 tháng 3 năm 1914; hạ thủy vào ngày 29 tháng 5 năm 1915 và đưa ra hoạt động vào ngày 20 tháng 12 năm 1915.

Tàu tuần dương HMS Champion
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Champion
Xưởng đóng tàu Hawthorn Leslie and Company
Đặt lườn 9 tháng 3 năm 1914
Hạ thủy 29 tháng 5 năm 1915
Nhập biên chế 20 tháng 12 năm 1915
Số phận Bị bán để tháo dỡ 28 tháng 7 năm 1934
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp tàu tuần dương C
Trọng tải choán nước 3.750 tấn (tiêu chuẩn)
Chiều dài 135,9 m (446 ft) (chung)
Sườn ngang 12,6 m (41 ft 6 in)
Mớn nước 4,4 m (14 ft 6 in)
Động cơ đẩy
  • 4 × turbine hơi nước Parsons
  • 8 × nồi hơi Yarrow
  • 4 × trục
  • công suất 37.500 mã lực (27,9 MW)
Tốc độ 52,8 km/h (28,5 knot)
Tầm xa
  • 10.930 km ở tốc độ 18,5 km/h
  • (5.900 hải lý ở tốc độ 10 knot)
Tầm hoạt động 405 tấn dầu đốt (tối đa 772 tấn)
Thủy thủ đoàn tối đa 324
Vũ khí
Bọc giáp
  • đai giáp chính: 102 mm (4 inch) giữa tàu
  • 38-57 mm (1½-2¼ inch) phía mũi
  • 51-64 mm (2-2½ inch) phía đuôi
  • sàn trên: 25 mm (1 inch)
  • sàn chính: 25 mm (1 inch) bên trên bánh lái

Vào giai đoạn đầu của Chiến tranh thế giới thứ nhất, Champion được phân về Hạm đội Grand như là soái hạm của Phân hạm đội Khu trục 13. Cùng với nhiều tàu chị em khác, nó đã tham gia trận Jutland vào ngày 31 tháng 5-1 tháng 6 năm 1916.

Champion đã sống sót qua cuộc chiến tranh, nhưng bị xem là đã lạc hậu trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra. Nó được sử dụng như là nền tảng thử nghiệm cho những hệ thống điều khiển hỏa lực từ xa (RPC: Remote Power Control) đầu tiên của Hải quân Hoàng gia vào năm 1928.[1] Nó được bán cho hãng Metal Industries tại Rosyth vào ngày 28 tháng 7 năm 1934 để tháo dỡ.

Chú thích sửa

  1. ^ Rippon, Evolution of Engineering in the Royal Navy, trang 258

Tham khảo sửa

Liên kết ngoài sửa