Hiệp Hòa (huyện)

Huyện thuộc tỉnh Bắc Giang

Hiệp Hòa là một huyện trung du nằm ở phía tây tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. Hiệp Hòa là đơn vị hành chính cấp huyện đông dân nhất tỉnh Bắc Giang và thứ 2 vùng Trung du miền núi Bắc Bộ

Hiệp Hòa
Huyện
Huyện Hiệp Hòa
Ngã 7 ở thị trấn Thắng
Hành chính
Quốc gia Việt Nam
VùngĐông Bắc Bộ
TỉnhBắc Giang
Huyện lỵthị trấn Thắng
Trụ sở UBNDTổ dân phố số 1, thị trấn Thắng
Phân chia hành chính2 thị trấn, 23 xã
Tổ chức lãnh đạo
Chủ tịch UBNDHoàng Công Bộ
Chủ tịch HĐNDNgô Tiến Dũng
Chánh án TANDNguyễn Ngọc Chung
Viện trưởng VKSNDNguyễn Văn Đông
Bí thư Huyện ủyNgô Tiến Dũng
Địa lý
Tọa độ: 21°21′14″B 105°58′55″Đ / 21,35389°B 105,98194°Đ / 21.35389; 105.98194
MapBản đồ huyện Hiệp Hòa
Hiệp Hòa trên bản đồ Việt Nam
Hiệp Hòa
Hiệp Hòa
Vị trí huyện Hiệp Hòa trên bản đồ Việt Nam
Diện tích201,1 km²
Dân số (2022)
Tổng cộng259.700 người
Mật độ1.281 người/km²
Dân tộcKinh
Khác
Mã hành chính223[1]
Biển số xe98-D1-D2
Websitehiephoa.bacgiang.gov.vn

Địa lý sửa

Huyện Hiệp Hòa nằm ở phía tây của tỉnh Bắc Giang, nằm cách thành phố Bắc Giang khoảng 30 km về phía tây, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 50 km, có vị trí địa lý:

Huyện Hiệp Hòa có diện tích 201,10 km². Năm 2009, dân số của huyện là 213.002 người, số người trong độ tuổi lao động chiếm 44,8% dân số, tuy nhiên chủ yếu là lao động nông nghiệp. Theo tổng điều tra dân số và nhà ở thì dân số của huyện Hiệp Hòa tính đến ngày 01/04/2019 là 247.460 người, là huyện đông dân nhất tỉnh Bắc Giang. Hiệp Hòa là vùng chuyển tiếp giữa đồi núi và đồng bằng, độ nghiêng theo hướng tây bắc xuống đông nam, địa hình mấp mô và gò thấp ở một số xã phía bắc, vùng đồng bằng tập trung ở phía đông nam và giữa huyện. Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 20.110 ha (tức 201 km²), trong đó đất nông nghiệp là 13.479 ha chiếm 67%, đất lâm nghiệp 190,3 ha chiếm 0,9%, đất chưa sử dụng 1.653,2 ha chiếm 8,2%. Đất đai đa dạng, thích nghi với nhiều loại cây trồng về lương thực, thực phẩm, công nghiệp.

Sông Cầu chảy men theo phía tây và phía nam huyện với chiều dài 50 km, tạo luồng chuyên chở khách và hàng hóa khá thuận tiện. Nước của dòng sông Cầu qua hệ thống mương máng được xây dựng từ thời Pháp tưới cho các cánh đồng trong huyện. Thuyền bè có thể theo sông Cầu lên Thái Nguyên, về Đáp Cầu, Phả Lại và ra biển. Sông Cầu bồi đắp phù sa màu mỡ cho các soi bãi ven sông và có trữ lượng cát sỏi hàng triệu mét khối cung cấp cho các công trình xây dựng.

Đất sét chịu lửa ở Đức Thắng có chất lượng tốt, trắng mịn, có thể làm đồ sứ. Đất sét dùng làm gốm sành ở xã Châu Minh, xã Lương Phong có trữ lượng lớn. Cát sỏi dọc sông Cầu. Vùng đồi núi có đá ong làm vật liệu xây dựng. Qua khảo sát địa chất có than và sắt nhưng chưa đến tuổi khai thác.

Hiệp Hòa không còn rừng tự nhiên, rừng trồng rải rác ở các xã phía bắc huyện và được giao cho các hộ, các tổ chức quản lý. Tổng diện tích rừng toàn huyện là 167ha.

Khí hậu Huyện Hiệp Hòa nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa của vùng Bắc Bộ. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, khí hậu lạnh, khô hanh và ít mưa. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, nóng và mưa nhiều. • Nhiệt độ: - Nhiệt độ trung bình của không khí: 23o C đến 25o C. - Nhiệt độ cao nhất năm: 39,1o C. - Nhiệt độ thấp nhất năm: 2,8 o C . [2].

Nước sông Cầu và hệ thống mương máng của huyện (cũng lấy từ nước sông Cầu) trong vài chục năm gần đây bị ô nhiễm nặng do các nhà máy công nghiệp của Thái Nguyên thải ra. Nhiều dự án cải tạo ô nhiễm sông Cầu đưa ra nhưng vẫn chỉ nằm trên giấy. Một đặc sản nổi tiếng một thời của Hiệp Hòa là Cá Cháy của sông Cầu (như cá Anh Vũ của sông Thao) hiện nay hoàn toàn không còn. Việc sản xuất nông nghiệp dùng nhiều thuốc trừ sâu, phân hóa học, thuốc diệt cỏ nên các động vật sống ở ruộng như ếch, nhái, cá, tôm, cua, rắn, đỉa gần như không còn.

Hành chính sửa

Huyện Hiệp Hòa có 25 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Thắng (huyện lỵ), thị trấn Bắc Lý và 23 xã: Châu Minh, Danh Thắng, Đại Thành, Đoan Bái, Đông Lỗ, Đồng Tâm, Hòa Sơn, Hoàng An, Hoàng Lương, Hoàng Thanh, Hoàng Vân, Hợp Thịnh, Hùng Sơn, Hương Lâm, Lương Phong, Mai Đình, Mai Trung, Ngọc Sơn, Quang Minh, Thái Sơn, Thanh Vân, Thường Thắng, Xuân Cẩm.

Lịch sử sửa

Con người đã có mặt trên vùng đất Hiệp Hòa ngay từ thời kỳ đồ đá, những xóm làng đầu tiên của Hiệp Hòa hình thành dọc hai bờ sông Cầu. Khu di chỉ Đông Lâm thuộc xã Hương Lâm khai quật với diện tích 80 m² và sâu 1,8 m đã phát hiện nhiều đồ đá, đồ gốm, đồ đồng và cả khuôn đúc rìu đồng bằng đá có niên đại cách ngày nay khoảng 3070 năm (xác định bằng các bon phóng xạ C14). Điều đó chứng tỏ Hiệp Hòa đã có một trung tâm đúc đồng từ rất sớm.

Từ thời kỳ vua Hùng, Hiệp Hòa thuộc bộ lạc Tây Âu, nằm trong bộ Vũ Ninh. Thời thuộc Hán, Hiệp Hòa nằm trong huyện Long Biên thuộc quận Giao Chỉ. Thời Lý, Hiệp Hòa có tên gọi là Phật Thệ nằm trong phủ Bình Lỗ thuộc lộ Bắc Giang. Thời Trần có tên là Thiện Thệ, thời Lê mới có tên gọi chính thức là Hiệp Hòa thuộc phủ Bắc Hà. Đến năm 1831 Hiệp Hòa nằm trong phủ Thiên Phúc.

Thời Bắc thuộc đơn vị hành chính cơ sở là Hương. Từ đầu thế kỷ thứ 10 đơn vị Giáp thay dần các Hương. Thời Lê (1428-1789) đơn vị hành chính đi vào hoàn chỉnh, năm 1428 đơn vị cấp xã được xác định là cấp cơ sở. Cuối thời Lê và trong cả thời Nguyễn (1802-1883) xuất hiện thêm hai cấp trung gian là Tổng và Phủ. Tổng gồm nhiều xã, là cấp trung gian giữa xã và huyện. Phủ là cấp trung gian giữa huyện và tỉnh (hoặc trấn).

Trấn Kinh Bắc thời Lê gồm 4 phủ: Thuận An, Từ Sơn, Bắc Hà, Lạng Giang. Phủ Bắc Hà có 180 xã, gồm 4 huyện: Hiệp Hòa, Yên Việt (nay là Việt Yên), Kim Hoa (nay là Kim Anh), Tiên Phúc (nay là Đa Phúc). Vào thời Lê Hiệp Hòa là một huyện nhỏ, chỉ có 22 xã. Năm 1485 đã có 54 xã.

Năm 1821, phủ Bắc Hà đổi thành phủ Thiên Phúc. Năm 1832 hai huyện Yên Việt và Hiệp Hòa lập thành phân phủ Tiên Phúc, năm 1852 phân phủ này không còn.

Thời nhà Nguyễn, Hiệp Hòa xê xích trong khoảng 50 - 51 xã đặt trong 9 tổng là: Đức Thắng, Hà Nhuyễn (hay Hà Châu), Cẩm Bào, Mai Đình, Hoàng Vân, Gia Định, Quế Trạo (hay Quế Sơn), Tiên Thù, Sơn Giao.

Như vậy cho đến cuối thế kỷ 19 phạm vi của Hiệp Hòa tiến sang cả bên kia sông Cầu. Đầu thế kỷ 20 tổng Hà Nhuyễn được chuyển về huyện Tư Nông của Thái Nguyên (nay là huyện Phú Bình) và tổng Tiên Thù cắt về huyện Phổ Yên. Năm 1902 tổng Sơn Giao giải tán đưa vào tổng Đức Thắng và nhập hai xã Quảng Lâm, Hòa Lâm thành xã Ngọc Thành. Liền sau thời gian đó Hiệp Hòa nhận về hai tổng của Việt Yên: Đông Lỗ, Ngọ Xá. Năm 1920 Hiệp Hòa lập thêm Tổng Ngọc Thành.

So sánh với "Bắc Ninh tỉnh chí": "Hiệp hòa có 9 tổng 50 xã thôn, 232 lính, 2 lính mộ, 2046 nhân đinh, 19.160 mẫu ruộng, thuế là 7.000 quan tiền một năm cộng 9.900 hộc lúa". Dưới thời Pháp thuộc số tổng vẫn như vậy nhưng bớt đi một số đất đai làng xã ở phía bắc, nhưng lại lấy thêm đất đai làng xóm ở phía đông thuộc Yên Thế và phía nam thuộc Việt Yên. Vào khoảng năm 1900 huyện lỵ của Hiệp Hòa vẫn còn nằm ở xã Trung Trật (làng Giật bây giờ), đó là trung tâm của vùng đất cũ. Nhưng sau này huyện lỵ Hiệp Hòa chuyển lên thị trấn Thắng để thành trung tâm của vùng đất đã bớt và thêm.

Đến thời kỳ Việt Nam dân chủ cộng hòa, các xã trong huyện luôn luôn xảy ra sự tách gộp do dân số phát triển và đổi tên các xã, các làng. Cuối năm 1945, chính quyền bỏ đơn vị hành chính là tổng và tổ chức thành 18 xã, dưới xã là thôn. Huyện Hiệp Hòa bao gồm thị trấn Thắng (huyện lỵ) và 24 xã: Bắc Lý, Châu Minh, Danh Thắng, Đại Thành, Đoan Bái, Đông Lỗ, Đồng Tân, Đức Thắng, Hòa Sơn, Hoàng An, Hoàng Lương, Hoàng Thanh, Hoàng Vân, Hợp Thịnh, Hùng Sơn, Hương Lâm, Lương Phong, Mai Đình, Ngọc Sơn, Quang Minh, Thái Sơn, Thanh Vân, Thường Thắng, Trung Nghĩa.

Năm 1954, chia xã Trung Nghĩa thành 2 xã: Mai Trung và Xuân Cẩm.

Ngày 27 tháng 10 năm 1962, tỉnh Bắc Giang sáp nhập với tỉnh Bắc Ninh thành tỉnh Hà Bắc, huyện Hiệp Hòa thuộc tỉnh Hà Bắc.[3] Ngày 6 tháng 11 năm 1996, huyện Hiệp Hòa thuộc trở lại thuộc tỉnh Bắc Giang.[4]

Ngày 18 tháng 1 năm 2012, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 63/QĐ-BXD công nhận thị trấn Thắng mở rộng là đô thị loại IV.[5]

Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập xã Đức Thắng vào thị trấn Thắng.[6]

Ngày 1 tháng 7 năm 2022, thành lập thị trấn Bắc Lý trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Bắc Lý.[7]

Huyện Hiệp Hòa có 2 thị trấn và 23 xã như hiện nay.

Giao thông sửa

Huyện Hiệp Hòa nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Bắc Giang, có vị trí địa lý tương đối thuận lợi. Hệ thống giao thông bao gồm đường thủy và đường bộ. Huyện Hiệp Hòa có vị trí thuận lợi, cách thành phố Bắc Giang khoảng 30km và cách thủ đô Hà Nội khoảng 50km. Phía Đông Bắc giáp huyện Tân Yên, phía Đông giáp huyện Việt Yên, phía Nam giáp vùng đồng bằng châu thổ Yên Phong của tỉnh Bắc Ninh, phía Tây Nam giáp huyện Sóc Sơn, phía Tây Bắc giáp Đô thị Hiệp Hòa và huyện Phú Bình. Hiệp Hòa có tiềm năng để kết nối rất thuận tiện với các công trình giao thông quốc gia, như Sân bay Nội Bài, các tuyến đường cao tốc bao gồm: - Cao tốc Hà Nội – Thái Nguyên chạy sát khu vực về phía Tây, kết nối với Hiệp Hòa qua tuyến đường vành đai 4 và đường BOT Quốc lộ 37 (đã có chủ trương xây dựng mới); - Cao tốc Hà Nội - Hạ Long nằm phía Nam khu vực, kết nối với Hiệp Hòa qua đường tỉnh 295, khoảng cách từ đường cao tốc đến trung tâm Hiệp Hòa khoảng 20km; - Cao tốc Hà Nội-Lạng Sơn nằm ở phía Đông Nam khu vực, kết nối với Hiệp Hòa qua quốc lộ 37; khoảng cách từ đường cao tốc đến trung tâm Hiệp Hòa khoảng 18km; - Tuyến đường Vành đai 5 vùng Hà Nội (dự kiến xây mới) nằm ở phía Bắc của huyện Hiệp Hòa, kết nối với Hiệp Hòa thông qua Quốc lộ 37, đường tỉnh 295 và 297.

Đường bộ của Hiệp Hòa khá thuận tiện, có ba tuyến chính: quốc lộ 37 từ Đình Trám qua Thắng (huyện Hiệp Hòa) dài 17 km), tỉnh lộ 295 Đông Xuyên - Thắng lên Cao Thượng (đoạn qua huyện dài 20 km), đường 296 nối Thắng qua cầu Vát tới phố Nỉ (đoạn qua huyện dài 9,5 km). Ngoài ra còn hai tuyến chỉ ở trong nội huyện: tỉnh lộ 288 từ Thắng đi Lữ và bến Gầm dài 9 km, từ Thắng đi bến đò Quế Sơn dài 5 km. Năm tuyến đường trên đều đã trải nhựa. Tỉnh lộ 295 đoạn Thắng - Đông Xuyên đã được cải thiện, đặc biệt Cầu Mai Đình - Đông Xuyên đã được hoàn thành.

Kinh tế - xã hội sửa

Hiệp Hòa chủ yếu sản xuất lương thực, rau màu, chăn nuôi gia súc gia cầm, nuôi trồng thủy sản. Nhờ hệ thống mương máng người dân có thể trồng hai vụ lúa và một vụ hoa màu trong một năm.Trong những năm gần đây Hiệp Hòa đã chú trọng chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, xây dựng các cụm công nghiệp nhằm thu hút đầu tư, nâng cấp hệ thống chợ nông thôn để phát triển thương mại.

Năm 2008 giá trị sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, xây dựng trên địa bàn huyện đạt 200 triệu USD, tăng 56,5% so với năm 2007. Sản lượng may mặc, bia hơi, khai thác cát sỏi, gạch đều vượt kế hoạch từ 9-10%. Hiện huyện đã quy hoạch được 7 cụm công nghiệp, trong đó có 4 cụm đã được đưa vào sử dụng với tổng diện tích 124,5 ha. Năm 2008 toàn huyện đã thu hút 6 dự án đầu tư lớn với tổng vốn đăng ký hàng trăm tỷ đồng[8].

Trước đây kinh tế Hiệp Hòa chủ yếu là nông nghiệp; hạ tầng còn nhiều hạn chế; tỷ lệ hộ nghèo còn khá cao. Đến nay, trên địa bàn huyện có 1 khu công nghiệp và 9 Cụm CN. Trong đó, KCN Hòa Phú có diện tích 207 ha, đang tiếp tục mở rộng, đến nay có hơn 50 DN đăng ký đầu tư và xây dựng nhà xưởng. 9 CCN có tổng quy mô 526,9 ha, tổng số vốn đầu tư khoảng 4.147,7 tỷ đồng.

Trong kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội giai đoạn 2021-2025, Hiệp Hòa xác định nhiệm vụ trọng tâm là ưu tiên phát triển công nghiệp, dịch vụ; lấy công nghiệp là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế. Phấn đấu đến năm 2025 tỷ lệ lấp đầy ở các khu, CCN đạt từ 75% trở lên. Hoàn thành quy hoạch các khu, CCN trên địa bàn huyện đến năm 2030, với 4 KCN và 14 CCN, tổng diện tích 2.050 ha.

Hiệp Hòa sẽ là trung tâm hành chính, chính trị, kinh tế, văn hóa, động lực phát triển kinh tế của khu vực phía Tây của tỉnh Bắc Giang; là một trong những trung tâm phát triển công nghiệp mới của vùng Thủ đô Hà Nội và tỉnh Bắc Giang

Cơ sở hạ tầng sửa

  • Điện lưới: Tính đến năm 2003 điện lưới quốc gia đã đến tất cả các xã, mọi hộ gia đình được sử dụng điện. Toàn huyện hiện có 124 máy biến áp.
  • Thông tin: Đường dây điện thoại cố định đã tới tất cả các thôn xóm trong huyện, mỗi gia đình đều có vô tuyến. Điện thoại di động được dùng rất phổ biến trong người dân. Tại trung tâm các xã đều có cơ sở bưu điện và Nhà văn hóa xã.
  • Nước sinh hoạt: Dân cư chủ yếu dùng nước sinh hoạt từ giếng đào còn một phần từ sông và nước mưa. Nước giếng vùng đồi núi của Hiệp Hòa nổi tiếng trong và mát. Khoảng trên 70% dân cư có nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Khu vực thị trấn được dùng nước máy.
  • Y tế: Toàn huyện có một bệnh viện lớn, các xã đều có trạm y tế xã, các thôn đều có y tá chăm sóc sức khỏe cho người dân. Ngoài ra còn có các phòng khám tư nhân.
  • Thương mại và dịch vụ: Hiện nay toàn huyện có 17 chợ và trên 6.000 cơ sở sản xuất, hộ kinh doanh cá thể. Hệ thống chợ được quy hoạch và một số chợ đang được đầu tư nâng cấp, đặc biệt là chợ trung tâm huyện đã xây dựng đáp ứng nhu cầu kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa của nhân dân trong huyện
  • Giáo dục – đào tạo và dạy nghề: Trên địa bàn Huyện hiện có 4 trường Phổ thông trung học công lập, 2 trường phổ thông trung học dân lập, 1 trung tâm giáo dục thường xuyên – dạy nghề, 1 trung tâm bồi dưỡng chính trị

Văn hóa sửa

Đặc sản sửa

Mít, vải thiều, sắn, lạc, đỗ ở các xã phía Bắc huyện có nhiều đồi núi như: trám đen ở xã Hoàng Vân, bánh chưng Hoàng An, Hoàng Vân, rau cần Hoàng Lương. Một số đặc sản nổi tiếng đã vào ca dao và bài hát nhưng hiệp nay không còn: lụa làng Cẩm Xuyên, cá cháy sông Cầu, quýt bộp trồng ở các soi bãi dọc sông Cầu, cải Tiếu của làng Tiếu, trầu không làng Gia Cát, quả sở dùng để ép dầu ăn ở làng Thù Sơn.

Các di tích thắng cảnh sửa

  • Đình Lỗ Hạnh thuộc xã Đông Lỗ: xây dựng năm 1576, là ngôi đình có niên đại sớm nhất Việt Nam, dòng chữ "Đệ nhất Kinh Bắc" ghi ở trong đình ngay từ khi xây dựng. Bộ tranh "Bát tiên" (8 cô tiên) gồm hai bức thuộc loại hình nghệ thuật sơn mài sớm nhất ở Việt Nam. Các bức trạm cưỡi ngựa, đấu võ, hoa sen, rồng, chim, tiên cưỡi rồng là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc có tiếng [9].
  • Lăng Dinh Hương là nơi lưu giữ thi hài quận công La Quý Hầu được xây dựng năm 1727.
  • Lăng Họ Ngọ là nơi lưu giữ thi hài Phương quận công Ngọ Công Quế được xây dựng năm 1697.
  • Lăng Bầu (xã Xuân Cẩm): xây dựng năm 1597, còn khá nguyên vẹn, chia thành hai lớp với hệ thống tường đá ong, cổng đá ong, tượng ngựa và quân hầu bằng đá, tượng voi, võ sĩ bằng đá, bàn đá.
  • Các di vật cổ nhất của Hiệp Hòa gồm có: trống đồng Bắc Lý (đào được ở khu đất Gò Mụ, thôn Lý Viên, xã Bắc Lý vào năm 1975), trống đồng Xuân Giang xã Mai Trung, các hiện vật đào được trong khu di chỉ Đông Lâm Hương Lâm. Tất cả các hiện vật này được lưu giữa ở Bảo tàng tỉnh Bắc Giang. Trống đồng Bắc Lý giống trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Đông Sơn, ở giữa có ngôi sao 12 cánh, 4 tượng cóc ở xung quanh. Đó là loại trống được xếp vào loại cổ nhất, một di sản đặc sắc và tiêu biểu của nền văn hóa Đông sơn cách đây 2350 năm.
  • Đình Xuân Biều (xã Xuân Cẩm) nơi khởi nghĩa giành chính quyền đầu tiên ở tỉnh vào ngày 12 tháng 3 năm 1945, trước ngày tổng khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945 là 160 ngày.
  • Khu di tích Núi IA (Y Sơn): Chùa IA, Đền IA thờ Thánh Hùng Linh Công.
  • Tour du lịch sinh thái đi dọc sông Cầu thuộc địa phận Hiệp Hòa 50 km, phần đẹp nhất của sông Cầu. Đi xe máy từ phố Thắng xuống chợ Lữ (có thể dừng lại thăm đình Lỗ Hạnh), tới bến Gầm, theo bờ Bắc sông, ngược sông Cầu đến bến đò Đông Xuyên, lên bến đò Ngọt rồi Ngã Ba Xà (nơi diễn ra hai trận đánh nổi tiếng của Lý Thường Kiệt với quân Tống), tiếp theo là bến đò Ninh Tào, cầu Vát mới xây dựng, bến đò Quế Sơn, bến đò Hà Châu, quay về phố Ca Sơn, kè Gia Tư, Phố Thắng. Tổng chiều dài khoảng 75 km.
  • Khu vực Ông Tượng ở huyện lỵ vừa là một di tích lịch sử vừa là một trung tâm thương mại của huyện. Ông Tượng là biểu tượng cho truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Hiệp Hòa được xây dựng vào năm 1970. Cây đa cổ thụ trước cửa Ủy ban huyện đã có hàng trăm năm. Chợ Ông Tượng họp suốt cả ngày. Xung quanh Ông Tượng là hệ thống ngân hàng, bưu điện, các cửa hàng buôn bán tấp nập.
  • An toàn khu thứ hai của Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ.

Truyền thống cách mạng sửa

Đêm ngày 9 tháng 3 năm 1945 Nhật nổ súng đánh bại các đội quân Pháp ở thị xã Phủ Lạng Thương. Ngay đêm Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945 Hội nghị mở rộng của Ban thường vụ trung ương Đảng đã họp tại làng Đình Bảng, do Trường Chinh chủ trì, để đánh giá tình hình và đề ra chủ trương mới. Ngày 12 tháng 3 năm 1945 Ban thường vụ trung ương đã ra chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta".

Sau khi dự Hội nghị mở rộng của Ban thường vụ trung ương, Lê Thanh Nghị (đặc phái viên của Trung ương, chỉ đạo phong trào chống Nhật ở các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên) và Nguyễn Trọng Tỉnh (Bí thư Ban cán sự đảng tỉnh Bắc Giang) nhận lệnh của Tổng Bí thư Trường Chinh về ngay Hiệp Hòa để chỉ đạo phong trào. Về tới xã Xuân Biều thuộc tổng Cẩm Bào (đó là đơn vị hành chính thời phong kiến, nay là làng Xuân Biều thuộc xã Xuân Cẩm), thấy chính quyền cũ ở đây hoang mang dao động đến cao độ, nhân dân sôi sục khí thế đấu tranh, hai người đã quyết định phát động quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền.

Chiều ngày 12 tháng 3 năm 1945 Lê Thanh Nghị, Nguyễn Trọng Tỉnh, Hà Thị Quế, Lê Thị Thuận, Phạm Yên... họp tại đình Xuân Biều bàn kế hoạch khởi nghĩa. Thực hiện kế hoạch khởi nghĩa cướp chính quyền, tự vệ bí mật tiếp cận lý trưởng để tước bằng triện, giấy tờ. Lấy được bằng triện, ngay lập tức tối hôm đó, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại đình Xuân Biều, có hơn 70 tự vệ và 300 quần chúng tham gia. Nguyễn Trọng Tỉnh tuyên bố thủ tiêu chính quyền cũ, thành lập chính quyền cách mạng, thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng xã. Đây là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền cấp xã thắng lợi đầu tiên trên phạm vi cả nước nhờ vận dụng chỉ thị ngày 12 tháng 3 năm 1945 của Ban thường vụ trung ương Đảng về khởi nghĩa từng phần, tạo điều kiện tiến tới tổng khởi nghĩa.

Ngày 13 tháng 3 năm 1945 Ủy ban dân tộc giải phóng làng Trung Định được thành lập, xóa bỏ hoàn toàn chính quyền cũ ở đây, thành lập chính quyền mới. Từ đêm ngày 12 tháng 3 năm 1945 và ngày 13 tháng 3 năm 1945 lính giữ đồn điền Vát vô cùng hoảng sợ trước phong trào cách mạng của quần chúng đã bỏ chạy, chủ đồn điền Vát cũng bỏ chạy.

Ngày 13 tháng 3 năm 1945 Ủy ban dân tộc giải phóng Xuân Biều, Trung Định (Trung Hòa, Trung Hưng Mai Trung ngày nay) đã huy động tự vệ và quần chúng đông tới 3.000 người rầm rộ kéo đến bao vây đồn điền Vát, lấy toàn bộ số thóc và trâu bò trong đồn điền.

Ngày 15 tháng 3 năm 1945 một cuộc mít tinh lớn được tổ chức ở chợ Vân, Lê Thanh Nghị và Nguyễn Trọng Tỉnh lên diễn thuyết hô hào quần chúng phá kho thóc của Nhật, chống Nhật thu thuế, thành lập chính quyền cách mạng.

Ngày 16 tháng 3 năm 1945 một cuộc biểu tình thị uy gồm trên 1.000 người của tự vệ và quần chúng hai tổng Hoàng Vân, Ngọc Thành và khu ấp Ba Huyện được tổ chức. Đoàn biểu tình đi qua đồn Trị Cụ đến thẳng đồn điền Cọ phá kho lấy thóc.

Từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 20 tháng 4 năm 1945 Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ lần thứ nhất họp tại nhà ông Ngô Văn Đông làng Liễu Ngạn, tổng Hoàng Vân. Dự hội nghị có Trường Chinh (Tổng bí thư Đảng chủ trì), Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Trần Đăng Ninh, Lê Thanh Nghị... Hội nghị đặt nhiệm vụ quân sự vào vị trí đặc biệt quan trọng, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, mở trường cấp tốc đào tạo cán bộ quân sự chính trị, xây dựng 7 chiến khu lớn trong cả nước (Hiệp Hòa nằm trong chiến khu II).

Được sự giúp đỡ của Trung ương, trực tiếp là Trường Chinh, Lê Thanh Nghị, ngày 8 tháng 5 năm 1945 một cuộc hội nghị đại biểu nhân dân các xã thuộc huyện Hiệp Hòa được triệu tập tại đình làng Quế Sơn (tổng Quế Trạo) bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng huyện và ra nghị quyết tạm chia ruộng đất của hai đồn điền Cọ và Vát cho tá điền và nông dân nghèo. Như vậy Hiệp Hòa là huyện đầu tiên trong toàn tỉnh thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng huyện và có Nghị quyết tạm chia ruộng đất.

Trước áp lực của cách mạng, tri huyện Thái Vĩnh Thịnh hết sức hoảng sợ, đã nhắn tin xin được gặp cán bộ Việt Minh. Việt Minh cử người đến liên lạc với tri huyện và bố trí cho tri huyện gặp Nguyễn Trọng Tỉnh. Tri huyện xin quy thuận Việt Minh và nhận làm nội ứng khi quân cách mạng tấn công huyện lỵ. Tối ngày 1 tháng 6 năm 1945 một đơn vị vũ trang của tỉnh cùng với tự vệ Hoàng Vân do Lương Văn Đài và Nguyễn Trọng Tỉnh chỉ huy, bố trí lực lượng, triển khai kế hoạch chiến đấu. Bốn trung đội do Lương Văn Đài trực tiếp chỉ huy đã tiến thẳng vào cổng huyện do tri huyện mở sẵn đón. Toàn bộ lính trong huyện nộp vũ khí đầu hàng. Việt Minh tập trung tri huyện, nha lại, binh lính để nghe giải thích chính sách của Việt Minh, sau đó đốt toàn bộ sổ sách tài liệu của chính quyền cũ, thu 30 súng. Riêng lục sự Liễn bị xử tử hình tại chỗ vì làm tay sai đắc lực cho Nhật, gây nhiều tội ác với nhân dân; đồng thời san bằng huyện đường, chấm dứt vĩnh viễn chính quyền của chế độ phong kiến thực dân và phát xít ở huyện Hiệp Hòa. Như vậy Hiệp Hòa là huyện giành chính quyền đầu tiên trong hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh, trước ngày tổng khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19 tháng 8 năm 1945 là 79 ngày.

Thời kỳ kháng chiến chống Pháp sửa

Trong kháng chiến Hiệp Hòa là vùng tự do (Việt Minh kiểm soát) nhưng giáp giới các vùng tề (do Pháp kiểm soát). Pháp xây dựng một loạt các vị trí, đồn bốt ở Núi Con Voi, Mỏ Thổ, Núi Nhẫm, Ngã Ba Xà, Chờ, Yên Phụ, Núi Đôi để cô lập Hiệp Hòa. Hiệp Hòa chịu rất nhiều cuộc càn quét và ném bom của Pháp, sau đây là những trận lớn (không kể các trận Pháp huy động từ 100 đến 500 quân):

  • Sáng ngày 9 tháng 5 năm 1949 giữa lúc chợ Thắng đông người, ba máy bay của Pháp bất ngờ bay tới, chúc đầu ném hai quả bom xuống giữa chợ, một quả nổ dưới đất, một quả nổ trên cành cây si, sau đó các máy bay quay lại tiếp tục bắn phá. Hơn 150 người bị chết và nhiều người bị thương, máu nhuộm đỏ nước ao ở cổng chợ.
  • Ngày 11 tháng 1 năm 1950 lực lượng Pháp gồm 400 lính Pháp và 400 lính người Việt từ vị trí Mỏ Thổ và Con Voi tiến lên càn quét các xã Lương Phong, Đoan Bái, Đức Thắng, Danh Thắng, đốt phá Thị trấn Thắng và huyện lỵ, bắt dân tản cư về lập tề.
  • Ngày 20 tháng 3 năm 1950 Pháp huy động một lực lượng lớn gồm 5.000 quân từ các vị trí Con Voi, Mỏ Thổ, Đáp Cầu, Chờ, Yên Phụ, Núi Đôi, có máy bay và tàu chiến yểm hộ, mở một trận tổng càn quét lên Hiệp Hòa nhằm phá hậu phương kháng chiến, chụp bắt các cơ quan tỉnh Bắc Ninh. Pháp bắn chết 14 người, đốt cháy 267 nóc nhà, cướp đi nhiều thóc và trâu bò.

Danh nhân sửa

Các tiến sĩ thời phong kiến sửa

Dưới các triều đại phong kiến, qua 11 khoa thi huyện Hiệp Hòa có 13 người đỗ tiến sĩ.

  • Khoa thi năm Giáp tý 1384 dưới triều vua Trần Phế Đế, tổ chức tại chùa Vạn Phúc, núi Tiên Du, Bắc Ninh, ông Đoàn Xuân Lôi là người đầu tiên của Hiệp Hòa đỗ tiến sĩ - đạt Trạng nguyên. Ông người xã Ba Lỗ, tổng Mai Đình, Hiệp Hòa (nay là làng Trâu Lỗ, hay làng Sổ).
  • Khoa thi năm Mậu Dần 1518 dưới triều vua Lê Chiêu Tông: Ngọ Doãn Thọ người xã Ngọ Xá đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
  • Khoa thi năm Bính Tuất 1526 thời vua Lê Cung Hoàng: Khổng Tư Trực, người Đoan Bái đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
  • Khoa thi năm Kỷ Sửu 1529 thời vua Mạc Đăng Dung:
    • Nguyễn Hoàng (trong Văn Miếu ở Hà Nội ghi là Nguyễn Mao) người xã Đức Thắng đỗ Đệ nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
    • Nguyễn Doãn Dịch, sinh 1490 người Hoàng Vân đỗ Đệ nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
  • Khoa thi năm Mậu Tuất 1538 dưới triều Mạc Đăng Doanh:
    • Hoàng Sầm, sinh năm 1512 tại Thù Sơn, sau chuyển sang Quế Trạo, đỗ Thám Hoa làm đến thượng thư, tước Hoàng Phúc Bá, là con rể Nguyễn Doãn Dịch.
    • Ngô Trang, người Ninh Định, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
  • Khoa thi năm Đinh Mùi 1548 thời vua Mạc Phúc Nguyên: Nguyễn Thúc Lương người Gia Định đỗ Đệ nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
  • Khoa thi năm Kỷ Mão 1559 thời vua Mạc Phúc Nguyên: Nguyễn Kính, người Quế Trạo sinh 1522, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, làm đến Hộ bộ thượng thư, tước Hương sơn hầu, đã từng đi sứ.
  • Khoa thi năm Giáp Tuất 1574 thời vua Mạc Mậu Hợp: Nguyễn Như Tiếp người Phúc Mỹ đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
  • Khoa thi năm Nhâm Thìn 1592 thời Mạc Mậu Hợp: Nguyễn Hữu Đức người Vân Cẩm sinh năm 1569 đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
  • Khoa thi năm Tân Sửu 1721 thời vua Lê Dụ Tông: Ngô Dụng người làng Vân Trì sinh năm 1684 đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
  • Khoa thi năm Tân Sửu 1901 thời vua Thành Thái triều Nguyễn: Nguyễn Đình Tuân người làng Trâu Lỗ, xã Mai Đình đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, đỗ đầu trong 9 vị tiến sĩ khoa này.

Một số người nổi tiếng sửa

  1. Bà Nguyễn Thị Song (Xã Mai Trung) - Anh hùng Lao động, đại biểu Quốc hội các Khóa IV và V [10]³
  2. Ông Hoàng Đăng Huệ (Xã Hoàng Thanh), Thiếu tướng, nguyên Chính ủy Binh chủng Tăng - thiết giáp[11]
  3. Ông Chu Công Phu (Xã Thường Thắng), Thiếu tướng, Phó Chính ủy Học viện Chính trị (Quân đội nhân dân Việt Nam)[12]
  4. Ông Nguyễn Văn Vọng (Xã Mai Trung), Tiến sĩ Toán học, nguyên Thứ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo, Đại biểu Quốc hội các khóa IX và X.
  5. Ông Triệu Văn Thế (Xã Mai Trung), Thiếu tướng, nguyên Cục Trưởng Cục Quản lý XNC - Bộ Công an.
  6. Ông Nguyễn Thái Lai (Xã Mai Đình), Tiến sĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.
  7. Ông Nguyễn Thanh Quất (Xã Hoàng Vân), nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hà Bắc.
  8. Ông Nguyễn Quốc Cường (Xã Hợp Thịnh), nguyên Ủy viên Trung ương Đảng (Khóa X, XI), Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam, Đại biểu Quốc hội các khóa XII, XIII, nguyên Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bắc Giang.
  9. Ông Bùi Văn Hải (Xã Hùng Sơn), Ủy viên Trung ương Đảng (Khóa XII), Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bắc Giang
  10. Ông Hoàng Thưởng (Xã Hùng Sơn), PGS.TS, nguyên Viện Khoa học hình sự Bộ Công an
  11. Ông Bùi Xuân Khang, Thiếu tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo, Bộ Quốc phòng.
  12. Ông Đặng Hoàng An (Xã Đoan Bái), Thứ trưởng Bộ Công Thương
  13. Ông Nguyễn Mạnh Tuấn (xã Hoàng Vân) một nhà hoạt động chính trị, đại tư sản có nhiều cống hiến cho quê hương Bắc Giang và đất nước, ông cũng là một trong những người vận dụng thành công nhất tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc

Làng nghề sửa

Các nghề ở Hiệp Hòa phát triển manh mún không tập trung thành làng nghề. Nghề mây tre đan, dâu tằm ở Xuân Cẩm, Mai Đình hiện nay không còn. Huyện có các làng nghề xưa và làng có nghề như:

Hình ảnh sửa

Chú thích sửa

  1. ^ Tổng cục Thống kê
  2. ^ Tài liệu 2 phần Tham khảo, trang 22
  3. ^ “Nghị quyết về việc hợp nhất tỉnh Hải Ninh và khu Hồng Quảng và sáp nhập xã Hữu Sản thuộc huyện Đình Lập, tỉnh Hải Ninh, huyện Sơn Động, tỉnh Hà Bắc”.
  4. ^ “Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh do Quốc hội ban hành”.
  5. ^ “Quyết định số 63/QĐ-BXD năm 2012 về việc công nhận thị trấn Thắng mở rộng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang đạt tiêu chuẩn đô thị loại IV do Bộ Xây dựng ban hành”.
  6. ^ “Nghị quyết số 813/NQ-UBTVQH14 năm 2019 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Bắc Giang”.
  7. ^ “Nghị quyết số 510/NQ-UBTVQH15 năm 2022 về việc thành lập thị trấn Phương Sơn thuộc huyện Lục Nam và thị trấn Bắc Lý thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang”.
  8. ^ Thông tin từ Mục 2 phần Liên kết ngoài, truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2009
  9. ^ Thông tin về Đình Lỗ Hạnh, Lăng Họ Ngọ, Lăng Bầu lấy từ Tài liệu 2 của phần Tham khảo, trang 146-148
  10. ^ “Danh sách nữ đại biểu Quốc hội”.
  11. ^ “Thiếu tướng Hoàng Đăng Huệ”.
  12. ^ “Thiếu tướng Chu Công Phu: Người con của quê hương Cách mạng”.

Tham khảo sửa

  1. Lịch sử Hà Bắc. Tập 1. Hội đồng lịch sử tỉnh Hà Bắc biên soạn và xuất bản 1982, khổ 19 x 27 cm, 248 trang.
  2. Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Hiệp Hòa. Tập 1. Ban thường vụ huyện ủy Hiệp Hòa biên soạn và xuất bản 1992, khổ 13 x 19 cm, 168 trang.
  3. Dương Quang Luân. Hiệp Hòa phong thổ ký. Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2003, khổ 13 x 19 cm, 252 trang.