Konstanty Ildefons Gałczyński

Konstanty Ildefons Gałczyński (23 tháng 1 năm 1905 – 6 tháng 12 năm 1953) là một nhà thơ Ba Lan và là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của Ba Lan thế kỷ 20.

Konstanty Ildefons Gałczyński
Sinh23 tháng 1 năm 1905
Warszawa, Ba Lan
Mất6 tháng 12, 1953(1953-12-06) (48 tuổi)
?
Nghề nghiệpnhà thơ

Tiểu sử sửa

Konstanty Ildefons Gałczyński sinh ở Warszawa. Ông học văn học và ngôn ngữ ở Đại học Warszawa. Gałczyński bắt đầu in thơ từ năm 1923. Năm 1928 ông tham gia nhóm thơ Kwadryga. Năm 1930 ông cưới Natalia Avalov và sống ở Berlin (19311933), ở Vilnius (19341936).

Khi Đức tấn công Ba Lan, ông bị tổng động viên vào quân đội. Những năm 1939-1940 Gałczyński bị bắt vào trại giam của Đức, ở trong nhiều trại cải tạo trong thời chiến tranh. Sau chiến tranh ông sống ở Brusel và Paris. Năm 1946 trở về Ba Lan, ông cộng tác với các tạp chí Przekrój, Tygodnik Powszechny và trở thành một nhà thơ nổi tiếng.

Gałczyński là tác giả của nhiều tập thơ châm biếm và thơ trữ tình rất nổi tiếng ở Ba Lan cũng như ở nước ngoài qua bản dịch. Thơ ông thể hiện tình yêu tổ quốc, quê hương, yêu lao động và nghệ thuật. Thơ ông giàu hình tượng, phong phú vần điệu và nhiều ý tưởng mới lạ, độc đáo. Ngoài sáng tác, ông còn là một dịch giả thơ nổi tiếng.

Ông mất ở Warszawa sau cơn nhồi máu lần thứ ba và được mai táng tại nghĩa trang quân đội.

Rất nhiều bài thơ của ông được phổ nhạc thành những bài hát nổi tiếng. Từ năm 1998 một triển lãm thơ cứ hai năm một lần mang tên ông. Từ năm 2007 Quỹ “Con ngỗng xanh” mang tên ông ra đời. Hàng chục trường học ở Ba Lan mang tên Konstanty Ildefons Gałczyński.

Tác phẩm sửa

 
Mộ Konstanty Ildefons Gałczyński ở Warsaw.
  • Liryka i groteska / Wybór N. Gałczyńskiej. — Warszawa: Czytelnik, 1975
  • Poezje. — Warszawa: Czytelnik, 1976
  • Dzieła, t. 1-5, [Warsz.], 1957-60

Thư mục sửa

  • Drawicz A. Konstanty Ildefons Całczyński. — Warszawa: Państw, zakł. wyd. szkolnich, 1972
  • Szymański W. P. Konstanty Ildefons Gałczyński. - Warszawa: PIW, 1972
  • Wyka М. Gałczyński a wzory literackie. — Warszawa: PIW, 1970

Một số bài thơ sửa

 
Tượng bán thân của nhà thơ dựng trước một bảo tàng.
Chuyện trò
- Anh yêu em như thế nào, anh hãy nói?
- Anh sẽ nói bây giờ…
- Anh nói đi.
- Anh yêu em ngày dưới mặt trời, đêm dưới nến
Yêu em khi em đội mũ, quàng khăn
Yêu em trong nhà hát, giữa ngã tư đường
Trong tím tử đinh hương, trong bạch dương, phúc bồn tử
Yêu em cả khi em đi làm, khi em ngủ
Và khi em đập quả trứng vỡ rất dễ thương
Ngay cả khi chiếc thìa nhỏ em buông.
Trong xe tắc xi, khi gần, khi xa thẳm
Và cả khi em đi bộ đến
Yêu em cả bắt đầu, cả ở cuối con đường
Khi em chải tóc bằng chiếc lược con.
Cả dưới biển, trên rừng, cả khi em khó xử
Yêu bây giờ. Yêu hôm qua, ngày mai. Cả ngày và đêm cũng thế
Và khi chim én bay về báo hiệu mùa xuân.
- Thế mùa hè anh có yêu em không?
- Cháy bừng như nắng hạ.
- Thế mùa thu mây đen khắp nơi, cây rụng lá?
- Anh yêu, ngay cả khi em đánh mất chiếc ô!
- Thế mùa đông, khi tuyết rơi bên cửa sổ trắng mờ?
- Ô! Mùa đông anh yêu em như ngọn lửa
Luôn ở trong tim em. Khi gần, khi xa cũng thế
Dù ở bên ngoài cửa sổ tuyết trắng rơi
Còn quạ đen bay dưới tuyết, giữa trời.
Farlandia[1]
Anh và em mong gặp gỡ trên cầu
Để cùng nhau đi nói chuyện tình yêu
Dưới bóng cây phong, bên quầy thuốc lá.
Nhưng chuyện xảy ra như anh từng nghĩ
Quân vô chính phủ cho nổ tung cầu
Ta chẳng gặp nhau vì chuyện này sao?
Đời chật chội, khắp nơi đều khó ở
Nhưng anh biết rằng có xứ Farlandia
Bầu trời xanh, có những cành lá cọ.
Em chớ u sầu, chớ tuôn dòng lệ
Chớ lo âu rằng chúng đã phá cầu
Ở xứ sở kia mình sẽ gặp nhau.
Những cành cọ đung đưa
Những cành cọ đung đưa
Có--có--có.
Tất cả nơi này đầy đủ
Ta không đến đây lần nữa
Không--bao--giờ.
Chim làm tổ trên cành cọ
Chim uống nước từ lá cọ
Mi--ma--mi.
Quên hết những u buồn
Và ta nuôi giấc mơ suông
Bằng những cành lá cọ.
Những cành cọ đung đưa
Những cành cọ đung đưa
Quá nhiều lá cọ.
Chúng ta đi về xứ sở
Ngọt ngào, xa xôi, bé nhỏ
Có tên là Farlandia.
Bản dịch của Nguyễn Viết Thắng
Rozmowa lirycna
- Powiedz mi jak mnie kochasz.
- Powiem.
- Więc?
- Kocham cie w słońcu. I przy blasku świec.
Kocham cię w kapeluszu i w berecie.
W wielkim wietrze na szosie, i na koncercie.
W bzach i w brzozach,
i w malinach, i w klonach.
I gdy śpisz. I gdy pracujesz skupiona.
I gdy jajko roztłukujesz ładnie -
nawet wtedy, gdy ci łyżka spadnie.
W taksówce. I w samochodzie. Bez wyjątku.
I na końcu ulicy. I na początku.
I gdy włosy grzebieniem rozdzielisz.
W niebezpieczeństwie. I na karuzeli.
W morzu. W górach. W kaloszach. I boso.
Dzisiaj. Wczoraj. I jutro. Dniem i nocą.
I wiosną, kiedy jaskółka przylata.
- A latem jak mnie kochasz?
- Jak treść lata.
- A jesienią, gdy chmurki i humorki?
- Nawet wtedy, gdy gubisz parasolki.
- A gdy zima posrebrzy ramy okien?
- Zimą kocham cię jak wesoły ogień.
Blisko przy twoim sercu. Koło niego.
A za oknami śnieg. Wrony na śniegu.
Farlandia
Myśmy mieli się spotkać na moście,
by pomówić o naszej miłości,
pod tym klonem, koło budki z papierosami;
ale, jakem przewidywał: oczywiście
most w powietrze wysadzili anarchiści,
no to gdzie się teraz spotkamy?
Wszędzie duszno i ciasno - lecz znam ja
pewien kraj pod nazwą Farlandia,
tam jest niebo śpiewające i palmy.
No, no, nie płacz, nie troskaj się. nie martw,
że tego mostu już nie ma --
my się jutro w Farlandii spotkajmy:
Palmy się kołyszą
palmy się kołyszą --
tak -- tak -- tak.
Tu wszystko zostało,
tu więcej nie wrócę --
nie -- nie -- nie.
Ptaki nad palmami,
w palmach słodkie miąższe --
mi -- ma -- mi.
Karmimy się snami,
a w snach znów najdroższe
palmy.
Palmy się kołyszą,
palmy się kołyszą --
za dużo.
To jest kraj, który jedziemy odkryć,
bardzo wiotki, bardzo słodki --
Farlandia.

Chú thích sửa

  1. ^ Far land (tiếng Anh) — xứ sở xa xôi.

Tham khảo sửa

Liên kết ngoài sửa