La Galissonnière (tàu tuần dương Pháp)

La Galissonnière là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Pháp, là chiếc dẫn đầu của lớp La Galissonnière bao gồm sáu chiếc được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được đặt theo Roland-Michel Barrin de La Galissonière. Trong chiến tranh, nó phục vụ cùng với phe Vichy Pháp và đã bị đánh đắm tại Toulon vào ngày 27 tháng 11 năm 1942.

Sơ đồ lớp tàu tuần dương Pháp La Galissonnière
Lịch sử
Pháp
Tên gọi La Galissonnière
Đặt tên theo Roland-Michel Barrin de La Galissonière
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Brest, Brest
Đặt lườn 15 tháng 12 năm 1931
Hạ thủy 18 tháng 11 năm 1933
Nhập biên chế 1 tháng 1 năm 1936
Số phận Bị đánh đắm tại Toulon, 27 tháng 11 năm 1942
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu tuần dương La Galissonnière
Trọng tải choán nước
  • 7.600 tấn Anh (7.700 t) (tiêu chuẩn)
  • 9.120 tấn Anh (9.270 t) (đầy tải)
Chiều dài 179 m (587 ft 3 in)
Sườn ngang 17,5 m (57 ft 5 in)
Mớn nước 5,35 m (17 ft 7 in)
Động cơ đẩy
  • 4 × turbine hơi nước hộp số Parsons
  • 4 × nồi hơi Indret
  • 2 × trục
  • công suất 84.000 shp (63.000 kW)
Tốc độ 31 hải lý trên giờ (57 km/h; 36 mph)
Tầm xa
  • 7.000 nmi (12.960 km; 8.060 mi) ở tốc độ 12 hải lý trên giờ (22 km/h; 14 mph);
  • 6.800 nmi (12.590 km; 7.830 mi) ở tốc độ 14 hải lý trên giờ (26 km/h; 16 mph);
  • 5.500 nmi (10.190 km; 6.330 mi) ở tốc độ 18 hải lý trên giờ (33 km/h; 21 mph);
  • 1.650 nmi (3.060 km; 1.900 mi) ở tốc độ 34 hải lý trên giờ (63 km/h; 39 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa 540
Vũ khí
Bọc giáp
  • đai giáp chính: 105 mm (4,1 in);
  • vách ngăn cuối: 30 mm (1,2 in);
  • hông: 120 mm (4,7 in);
  • sàn tàu: 38 mm (1,5 in);
  • tháp pháo: 100 mm (3,9 in);
  • tháp chỉ huy: 95 mm (3,7 in)
Máy bay mang theo
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng

Thiết kế và chế tạo sửa

Thiết kế của lớp La Galissonnière hình thành dựa trên sự cạnh tranh chạy đua vũ trang giữa PhápÝ, đối thủ tiềm năng chủ yếu của họ tại Địa Trung Hải. Với trọng lượng choán nước vào khoảng 7.000-9.000 tấn, dàn pháo chính bao gồm chín khẩu pháo 152 mm (6,0 in)/55 calibre bố trí trên ba tháp pháo ba nòng, vỏ giáp khá tốt và tốc độ tối đa lên đến 31–32 kn (57–59 km/h), lớp La Galissonnière tương đương hay vượt trội hơn ở nhiều khía cạnh so với các thế hệ của lớp tàu tuần dương Condottieri của Hải quân Ý, nhưng chỉ ngang bằng hay kém hơn so với các tàu tuần dương hạng nhẹ của Anh hay Đức đương thời.

Là chiếc dẫn đầu của lớp, La Galissonnière được đặt lườn tại Xưởng vũ khí Brest ở thành phố Brest vào ngày 15 tháng 12 năm 1931. Nó được hạ thủy vào ngày 18 tháng 11 năm 1933 và đưa ra hoạt động cùng Hải quân Pháp vào ngày 1 tháng 1 năm 1936.

Lịch sử hoạt động sửa

La Galissonnière thoạt tiên được phân về Hải đội hạng nhẹ 2 tại Địa Trung Hải cho đến tháng 10 năm 1937, khi nó hình thành nên Hải đội Tuần dương 3 đặt căn cứ tại Toulon cùng với các con tàu chị em Jean de VienneMarseillaise. Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, La Galissonnière thực hiện nhiệm vụ tuần tra ngoài khơi bờ biển Tunisia cho đến giữa tháng 11 năm 1939, khi nó trải qua một đợt tái trang bị lớn tại Brest cho đến cuối tháng 2 năm 1940. Sau đó nó đặt căn cứ tại Toulon cho đến khi Pháp đầu hàng.

Từ tháng 1 năm 1941, La Galissonnière được đưa về một đơn vị gọi là Lực lượng Biển khơi của phe Vichy Pháp, nhưng hầu như không đi ra biển do bị thiếu hụt nhiên liệu, bị tháo dỡ vũ khí và không hoạt động. Vào tháng 11 năm 1942, Đức xâm chiếm vùng tự do của Pháp và tìm cách chiếm các tàu chiến Pháp tại Toulon; nên cùng với hầu hết hạm đội Pháp trong cảng, nó bị đánh đắm vào ngày 27 tháng 11 năm 1942 để ngăn không lọt vào tay quân Đức. Chiếc tàu tuần dương dùng chung ụ tàu với thiết giáp hạm Dunkerque, nên thuyền trưởng của nó di chuyển nó ra phía trước rồi mở van làm đắm tàu để chặn cửa ra vào ụ tàu.

Được trao cho phía Ý sau một số trì hoãn vì lý do chính trị, con tàu được Hải quân Ý cho nổi trở lại vào ngày 3 tháng 3 năm 1943 và được đổi tên thành FR 12. Tuy nhiên, dự định sáp nhập các con tàu trước đây của Pháp vào lực lượng của mình không thể thực hiện do tình trạng thiếu hụt nhiên liệu triền miên của Ý.[1] Nó bị hư hại sau một cuộc không kích của Đồng Minh vào ngày 24 tháng 11 năm 1943. Đến năm 1944, sau khi Ý đầu hàng, phía Đức chuyển các con tàu cho chính phủ Vichy. Tuy nhiên nó lại bị trúng bom và chìm sau cuộc không kích do máy bay ném bom B-25 của Không lực Lực quân Hoa Kỳ tiến hành vào ngày 18 tháng 8 năm 1944. Xác tàu đắm được cho nổi trở lại và cuối cùng bị tháo dỡ vào năm 1952.

Tham khảo sửa

Chú thích sửa

  1. ^ Le Masson 1969, tr. 104

Thư mục sửa

  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922-1946. Greenwhich: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Le Masson, Henri (1969). Navies of the Second World War The French Navy Volume 1. London: Macdonald & Co. ISBN 0356-02384-2.

Liên kết ngoài sửa