Thành viên:Anh Họ Nguyễn/Nháp
Lịch sử Quốc Kỳ Việt Nam
sửaQuốc kỳ Việt Nam qua các triều đại Phong kiến
sửaThời Hồng Bàng, Âu Lạc, Nam Việt
sửaThời Trưng Nữ Vương
sửaQuốc kỳ Việt Nam được hình thành vào năm 40, khi hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa. Tương truyền, hai bà cưỡi voi, mặc áo giáp vàng, phất ngọn cờ vàng, chỉ huy cuộc khởi nghĩa dành lại độc lập cho dân tộc. Đại Nam quốc sử diễn ca có chép rằng:
"Đầu voi phất ngọn cờ vàng,
Chị em nương tử thay quyền tướng quân"
Thời Bà Triệu
sửaĐại Nam quốc sử diễn ca chỉ chép về lá cờ thời bà Triệu rằng:
"Đầu voi phất ngọn cờ vàng,
Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha
Chông gai một cuộc quan hà,
Dù khi chiến tử còn là hiển linh"
Nhà Tiền Lý
sửaNhà Ngô
sửaNhà Đinh
sửaNhà tiền Lê
sửaNhà Lý
sửaNhà Trần
sửaNhà Hồ
sửaNhà Lê Sơ
sửaNhà Mạc
sửaNhà Tây Sơn
sửaNhà Nguyễn
sửaQuốc kỳ Việt Nam thời Hiện Đại
sửaĐế Quốc Việt Nam
sửaCộng Hòa Tự Trị Nam Kỳ
sửaKhu Tự Trị Thái Mèo
sửaViệt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
sửaQuốc Gia Việt Nam
sửaNăm 1948, Hoàng đế Bảo Đại cùng với đại diện các đoàn thể chính trị, tôn giáo, thân hào nhân sĩ trong nước họp tại Honkong đã chọn quốc kỳ chính thức cho Quốc Gia Việt Nam do họa sĩ Lê Văn Đệ vẽ kiểu. Đó là lá cờ quốc gia, nền màu vàng, ba sọc đỏ ở giữa lá cờ, sọc đỏ ở giữa liền nhau, đã được Nguyễn Văn Xuân, Thủ tướng Chính Phủ lâm thời quốc gia Việt Nam ban bố ngày 2/6/1948.
Việt Nam Cộng Hòa
sửaCộng Hòa Miền Nam Việt Nam
sửaCộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
sửaQuốc kỳ Việt Nam thời thuộc địa
sửaLiên Bang Đông Dương
sửaQuốc kỳ Việt Nam thời binh loạn
sửaLoạn 12 xứ quân
sửaChúa Trịnh
sửaChúa Nguyễn
sửaNăm 1558, Nguyễn Hoàng vào Nam xưng chúa, đặt hiệu kỳ của mình là chính kỳ của xứ Đàng trong. Sau này lá cờ này được Hoàng đế Gia Long sử dụng làm Quốc kỳ Việt Nam với tên gọi là Long Tinh Kỳ. Cờ của chúa tồn tại từ 1558 đến 1802.