Thảo luận:Mikoyan-Gurevich MiG-17

Bình luận mới nhất: 17 năm trước bởi Thái Nhi trong đề tài Untitled

Untitled sửa

Một vài ý kién về MIG-17.

Về cánh xuôi sau. sửa

Không phải chỉ riêng MIG-17 có cánh xuôi sau. Trong dòng máy bay MIG, ba loại MIG-15, MIG-17 và MIG-19 cùng trong lớp máy bay cánh xuôi sau đuôi ngang treo cao. Chúng ra đời ở giai đoạn các máy bay trên thế giới tăng tốc độ do các nhà kỹ thuật cải tiến động cơ phản lực. Trước MIG-15, máy bay MIG-9 được coi là kiểu trung gian giữa phản lực và cánh quạt, step mode. MIG-9 có vị trí động cơ, trọng tâm và các cánh khí động tương tự như các máy bay cánh quạt. Máy bay cánh xuôi sau phát triển tốc độ từ 900km/h đến 1900km/h. Sau đó, các máy bay cánh tam giác và các tứ giác có tốc độ từ xấp xỉ M2 và cao hơn nữa. "Điểm mới là ứng dụng cánh xuôi phía sau" là sai, các máy bay MIG-15, MIG-17 và MIG-19 chỉ khác nhau một chút về hình dáng cánh. Đuôi ngang càng ngày càng thấp xuống từ MIG-15 đến MIG-19, theo phát triển tốc độ tăng lên.

Về nhiệm vụ. sửa

MIG-15 và MIG-17 là các máy bay đánh chặn (interceptor). Trong cơ cấu máy bay Soviet và Đức hồi thế chiến 2, đây là các máy bay chuyên nghiệp không chiến, nhỏ, linh hoạt và có số lượng lớn. Nó đánh mọi thứ bay trên trời. "Mục tiêu chiến lược của MiG-17 và đa số các máy bay chiến đấu khác của Sô viết là bắn hạ các máy bay ném bom của Mỹ, chứ không phải là lao vào các cuộc hỗn chiến" là sai. Ngày đó, chiến đấu trên không cần những máy bay gọn nhẹ để linh hoạt hỗn chiến (dogfight). Cũng vì yêu cầu gọn nhẹ, nên các máy bay đánh chặn kém khả năng mang bom, và cần hai loại máy bay riêng, ném bom bổ nhào và đánh chặn. Chỉ đến khi kỹ thuật điện tử phát triển, việc không chiến cần những máy bay to mang vũ khí khí tài lớn, thì máy bay không chiến và ném bom bổ nhào Soviet mới hòa vào nhau, trong dòng MIG là chiếc MIG-23. Có thể người viết đã hiểu sai interceptor và fighter. Người Mỹ chế tạo những mẫu máy bay vừa không chiến vừa tấn công mặt đất được, rồi từ mẫu ban đầu đó, họ chế tạo những loại đa năng thiên về từng nhiệm vụ, gọi là máy bay chiến đấu fighter. Do đó, cơ cấu máy bay Mỹ rất ít máy bay chiến đấu chuyên nghiệp interceptor. Người viết cũng sai lầm khi cho rằng máy bay MIG-17 tốc độ chậm không thỏa mãn nhiệm vụ chiến đấu với máy bay không chiến. Thực tế, MIG-17 trở thành máy bay không chiến chủ lực của Liên Xô vào thời của nó. Lúc đó là thời kỳ động cơ phản lực tiến bộ rất nhanh, có nhiều loại máy bay nghiên cứu thử nghiệm tốc độ cao hơn, nhưng so sánh với các máy bay chiến đấu được trang bị thực tế lúc đó thì MIG-17 là một trong những máy bay nhanh nhất. Tuy nhiên, giống như các máy bay thời kỳ động cơ phát triển chóng mặt, thời của MIG-17 không kéo dài. Cách cơ cấu của Liên Xô và Đức có một nhược điểm là cần đội máy bay rất đông, nhưng số máy bay có khả năng làm một nhiệm vụ cụ thể lại ít. Ưu điểm của cơ cấu này là tính năng của máy bay chiến đấu chuyên nghiệp mạnh và rẻ, nên sản xuất được nhiều. Cơ cấu máy bay này xuất hiện từ những kinh nghiệm chiến trường của chiến tranh Tây Ban Nha, đạt tỷ lệ và số lượng máy bay chiến đấu lớn trong chiến tranh Xô-Đức thuộc thế chiến 2, phục vụ cho những chiến dịch quân sự lớn hồi đó. Các máy bay phản lực được sản xuất nhiều nhất đến nay là ba loại máy bay loại không chiến chuyên nghiệp tầm ngắn Liên Xô MIG-15, MIG-17, MIG-21. Máy bay MIG-19 không gặp may, máy bay hai động cơ này dựa vào một loại động cơ phát triển quá chậm, trong thời kỳ kỹ thuật phát triển chóng mặt, khi đủ điều kiện chế tạo hàng loạt thì MIG-21 đã xuất hiện. Vì vậy, MIG-19 ở Liên Xô không được sản xuất nhiều như các MIG khác, mà được sản xuất nhiều ở Trung Quốc và một vài nước. Việt Nam chỉ có loại MIG-19 Trung Quốc. MIG-19 Trung Quốc có phần kém tính năng so với nguyên bản, cũng tham chiến ở Việt Nam nhưng kết quả chung rất thấp. MIG-21 là máy bay trung gian còn MIG-15 và MIG-17 là những máy bay hỗn chiến (dogfight) bằng súng điển hình.Trong phát triển, MIG-15 và MIG-17 được trang bị radar phục vụ mục tiêu chiến đấu mọi thời tiết, nhưng radar hồi đó yếu. MIG-17 có khả năng ngắm bắn bằng radar nhưng trên tực tế, hầu như phụ thuộc vào mắt phi công.


Về thử nghiệm và chế tạo, phân loại MIG-17. sửa

Mikoyan chế tạo song song hai loại máy bay, một động cơ và hai động cơ canh xuôi sau. Máy bay một động cơ bắt đầu từ I-310, chính là MIG-15. Mẫu thử nghiệm SI (hay là I-330) được đưa vào sản xuất với tên gọi MIG-17 có một động cơ. Ký hiệu SI chỉ rằng máy bay cải tiến thân so với MIG-15 (các mẫu thử ký hiệu S). Máy bay được thiết kế trong năm 1949, song song với máy bay MIG-15bis (máy bay MIG-15 dùng động cơ mới). I-330 mang động cơ V.Klimov VK-1. Vũ khí tương tự MIG-15, gồm 3 súng, một khẩu 37mm và 2 khẩu 23mm. Mẫu thử nghiệm đầu tiên cất cánh ngày 13 tháng giêng 1950, đây là máy bay chiến đấu đầu tiên của Liên Xô vượt âm thanh, đạt tốc độ 1,03 lần tốc độ âm thanh, rơi tháng 3 năm đó. Sản xuất hàng loạt bắt đầu từ tháng 6 năm 1950. Máy bay một động cơ được chọn sản xuất do mẫu thử I-340 hai động cơ AM-5, mà động cơ này rất chậm phát triển. Sau này, I-340 được cải tiến thành I-360 và thành MIG-19. Dòng máy bay hai dòng máy bay hai động cơ bắt đầu từ I-320, bố trí hai động cơ bậc thang theo chiều dọc, cái này trước cái kia, cái trước đặt dưới. Đến I-240 mới lắp hai động cơ ngang nhau.

Các loại MiG-17P, MiG-17F, MiG-17PF, MiG-17PFU người viết đã nói đến, nhưng hơi phiến diện. Ở cuối bài này có danh sách các loại máy bay MIG-17 và quy tắc đặt tên..Ngoài ra còn có vài thứ.

Máy bay I-350 (M-1, M-2, MT) dùng động cơ Lyulka TR-3A (AL-5) lực đẩy 4700kg. thiết kế giữa năm 1950, bay năm 1951. Máy bay có ba biến thể, M-1, M-2 và MT. máy bay có cánh xiên sau hơn I-330, đạt 55 độ. Thân dài hơn và có gờ cánh, tăng cường ổn định ở tốc độ cao. Tốc độ cao hơn MIG-17 I-330 một chút, vượt âm khi bay ngang độ cao thấp. Máy bay rỗng nặng 6124kg, trọng lượng cất cánh thông thường 8170kg. M-1 dùng radar Izumrud(lắp môi trên cửa hút gió) còn M-2 dùng radar Korshun (lắp giữa cửa hút gió). MT là máy bay huấn luỵện hai chỗ ngồi, nhưng không được chế tạo. Ngày 16-6 năm 1951, máy bay bay chuyến đầu, chuyến thứ 5 kết thúc tháng 8 và chương trình dừng. Nguyên nhân không thể hoàn thiện hệ thống cung cấp nhiên liệu cho động cơ. Ngay lần thử đầu tiên, máy bay đã hỏng động cơ, hệ thống thủy lực dừng theo, phi công thử nghiệm xuất sắc Grigory Sedov cứu được máy bay. Do yêu cầu của bác sĩ, A.I.Mikoyan được thông báo là thử nghiệm thành công cho đến khi ông khỏi bệnh. Động cơ được thiết kế lại với tên TR-3A, nhưng vẫn không đạt yêu cầu.

SP-2, máy bay sử dụng radar tìm kiếm tiên tiến Korsun (Kite), các biến thể khác chỉ có radar ngắm bắn. Bỏ súng 37mm, năm 1951. Sản xuất với số lượng hạn chế. MiG-17PM (PFU) mang tên lửa R-5, đây là loại tên lửa tầm quang, dùng đèn chiếu quan học dẫn đường. Loại tên lửa này chỉ dùng trong thời gian ngắn. Các náy bay MIG-15, MIG-17 và MIG-19 có 3 cấu hình radar. Cấu hình đầu tiên là không radar, loại thứ hai có một radar ngắm bắn giữa cửa hút gió. Loại nữa mang radar tìm kiếm ở môi trên cửa hút gió hoặc mang cả radar tìm kiếm và radar ngắm bắn sử dụng chung một màn hình. Radar của MIG-17 nhỏ và yếu, trong chiến tranh Việt Nam, một phi công chiến đấu đêm đã phải nbỏ radar bắn mắt thường theo đèn máy bay địch. Nguyên nhân là hai máy bay địch tiến lại gần nhau rồi tách, làm máy tính tương tự của radar bị treo.

Về động cơ. sửa

Các loại máy bay từ MIG-9 đến MIG-19 sử dụng nhiều loại động cơ. Các động cơ này có ba nguồn gốc. Dòng động cơ đầu tiên được sản xuất lớn là RD-20, RD-21. Đây là động cơ sao chép và cải tiến từ động cơ phản lực Đức trong chiến tranh BMW-003. Động cơ này dễ chế tạo, nhưng lực đẩy nhỏ (dưới một tấn) và tuổi thọ thấp. Loại này có máy nén dọc trục nhiều tầng. Áp suất đốt từ 3atm-4atm, buồng đốt hình trụ có lưới cách nhiện lỗ nghiêng.

Loại động cơ áp dụng nhiều nhất là RD-45, sau được mở rộng thành VK-1. Ban đầu, Liên Xô đặt hàng nhà thiết kế Nene, hãng Rolls-Royce, Anh Quốc thiết kế và chế tạo động cơ cho máy bay chiến đấu. Hai sản phẩm là Nene-1 và Nene-2. Tiếp sau Liên Xô mua bản quyền chế tạo. Nhưng sau đó, chiến tranh lạnh xuất hiện, buộc Liên Xô phải tự sản xuất theo mẫu Nene và mở rộng. Đây là loại động cơ có một tầng máy nén ly tâm, áp suất đốt 4atm. Buồng đốt ưu việt hơn hản các loại động cơ khác. Bay lần đầu ở mẫu thử máy bay MIG-15 I-310 S-2, ngày 27 tháng 5 năm 1948. Loại động cơ Liên Xô cải tiến đầu tiên là RD-45F, lực đẩy 2270kg, năm 1948 (thực chất, chỉ là Nene-1 vẽ lại theo các đơn vị đo lường Liên Xô, Nene-2 cũng không khác gì nhiều). I-310 (máy bay thử nghiệm MIG-15) có ba bản, S-1 dùng Nene-1, S-2 dùng RD-45 và S-3 dùng Nene-2. Động cơ 2700kg VK-1 được sử dụng cho MIG-15bis để nâng cao tính năng máy bay khi chiến tranh lạnh bắt đầu. Động cơ VK-1A năm 1952 lực đẩy 3200kg. Động cơ VK-1F năm 1954 có dốt lần hai lực đẩy 3700kg. VK có áp suất đốt trung bình trên RD một chút.

Loại động cơ do Liên Xô tự phát triển từ năm 1938 Lyulka TR-1 được trang bị lần đầu cho MIG-9. Động cơ TR-3 trang bị cho máy bay I-350. các loại động cơ này chỉ được sản xuất thử nghiệm, không đạt độ tin cậy. Chỉ đến MIG-25, hậu duệ của chúng là R-15 mới được sản xuất lớn. Loại động cơ này có lượng gió thông qua lớn, máy nén đồng trục số tầng nén thấp và tốc độ vòng quay cao. Sau này, hãng Lyulka là nhà cung cấp chính động cơ cho máy bay chiến đấu Liên Xô và Nga.

Tất cả các động cơ trên đều là động cơ phản lực tuốc-bin (turbine) một luồng khí TurboJet. Các máy bay cánh xuôi sau Liên Xô gặp nhiều vấn đề về động cơ. Ví dụ như AM-5 ra đời rất chậm là nhiều máy bay sử dụng nó bị đình hõan, trong đó có các phương án hai động cơ của MIG-17. Điều này thể hiện giới hạn của động cơ kiểu Nene. Sau này, Turmasky chế tạo động cơ hai trục lồng nhau R-11, máy bay chiến đấu Liên Xô mới có động cơ ổn định, bắt đầu từ MIG-21. Kết cấu này ngày nay thường được dùng làm lõi của các động cơ máy bay chiến đấu. Một vấn đề nữa hạn chế dòng máy bay cánh xuôi sau, là hiện tượng chấn động cửa hút gió khi máy bay gần tốc độ âm thanh. Ở tốc độ này của máy bay, gió trong cửa hút có tốc độ cao hơn, đạt tốc độ âm thanh. Sóng âm chuyển động bằng vận tốc của gió, xuất hiện tình trạng tích lũy năng lượng và nổ gây chấn động, làm tắt hoặc hỏng động cơ. MIG-15 gặp rất nhiều tai nạn do dừng đột ngột động cơ khi bổ nhào mà mái sau này mới giải thích được nguyên nhân. Các máy bay trên thế giới sau đó khắc phục bằng cửa hút gió hẹp gấp khúc, như MIG-21, SU-22 hay SR-71. Máy bay MIG-17 cũng gặp trở ngại này nhiều hơn, do vẫn dùng cửa hút gió của MIG-15 và tốc độ cao xấp xỉ tốc độ âm thanh.

Tham khảo: http://airbase.ru/hangar/russia/mikoyan/ http://airbase.ru/hangar/planes/russia/mig/mig-17/index.htm http://www.airwar.ru/firm/mrus.html


MIG-17B, MIG-17SP-2, MIG-17SP-6 Tập tin:Http://www.airwar.ru/image/i/fighter/mig17ib-i.jpg Tập tin:Http://www.airwar.ru/image/i/fighter/mig17sp2-i.jpg Tập tin:Http://www.airwar.ru/image/i/fighter/mig17sp6-i.jpg

MIG-17SG. M<IG-17SF, MIG-17PFU Tập tin:Http://www.airwar.ru/image/i/fighter/mig17sg-i.jpg Tập tin:Http://www.airwar.ru/image/i/fighter/mig17sf3-i.jpg Tập tin:Http://www.airwar.ru/image/i/fighter/mig17pfsp9-i.jpg


Về sử dụng trong chiến tranh Việt Nam. sửa

Thời kỳ này, MIG-17 đã được coi là "out of date", quá cổ. Nói rộng ra một chút, thời kỳ không chiến trên bầu trời miền Bắc Việt Nam đã xuất hiện những mâu thuẫn Liên Xô và Trung Quốc. Trước năm 1960, Liên Xô viện trợ ồ ạt cho Trung Quốc, làm kỹ thuật Trung Quốc phát triển với tốc độ đại nhảy vọt. Đến 1960, người Trung Quốc đã chế tạo được MIG-19 và đang hoàn thiện việc chế tạo MIG-21, máy bay chiến đấu trên không hiện đại nhất của Liên Xô. Như vậy, từ một nước hết sức lạc hậu năm 1949, chỉ trong vỏng 10 năm, Trung Quốc đã sản xuất được những máy bay chiến đấu hàng đầu thế giới. Nhưng do những đá đấu tranh giành quyền lực nội bộ, người Trung Quốc đột nhiên quay sang đối đầu với Liên Xô, nhằm đánh những thế lực của các nhà kỹ thuật mới xuất hiện. Người Trung Quốc đã thay thời kỳ phát triển nhảy vọt trước 1960 thành kế hoạch "Đại nhảy vọt" và những kế hoạch điên rồ khác, phá hoại gốc rễ nền tảng kinh tế và kỹ thuật, tạo thời kỳ bế tắc kỹ thuật kéo dài 30 năm. Do mâu thuẫn này, Liên Xô không thể viện trợ những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất cho Việt Nam, tránh thất thoát kỹ thuật sang Trung Quốc, vốn rất thân thiện với Việt Nam. Thậm chí, Liên Xô cử chuyên gia sang trực tiếp sử dụng khí tài hiện đại. Có thể lấy ví dụ nhỏ, khi cần hiệu chỉnh SAM-2, đích thân Đại Sứ Liên Xô phải ra lệnh tháo đầu dẫn đường làm ngay trên Việt Nam, còn chuyên gia yêu cầu mang về Nga, sẽ làm lỡ chiến trận.

Tuy được Liên Xô viện trợ những kỹ thuật tối tân hồi những năm 1950, nhưng người Trung Quốc tỏ ra rất kém chiến đấu bằng máy bay. Những máy bay chiến đấu phản lực Trung Quốc đến 28-10-1958 đại bại trước Đài Loan. Đã bại trong chiến đấu, người Trung Quốc lại tỏ ra không kiên trì dũng cảm phát triển chiến thuật và bế tắc kỹ thuật, không tìm được phương thức chiến đấu hiệu quả. Trước khi những chiến công của Không Quân Nhân Dân Việt Nam anh hùng diễn ra, người Trung Quốc đã vài lần bị Mỹ bắn hạ trên vùng biển vịnh Bắc Bộ mà phải bó tay, không trả đòn được gì. Sự thật là người Trung Quốc quá khiếp sợ trận đánh ngày 28-10-1958, Đài Loan sử dụng vũ khí mới là tên lửa có điều khiển, loại hướng hồng ngoại AIM-9, đánh các MIG-15 Trung Quốc. Một mặt, Trung Quốc hèn nhát dừng hoàn toàn các cuộc chiến đấu trên không, mặt khác, họ huy động một lượng người khổng lồ, rà quét từng đề-xi-mét vuông vùng diễn ra trận đánh. Những người được huy động thu thập từng mẩu vũ khí rơi xuống trong một vùng vài trăm ki-lô-mét vuông. Trung Quốc tìm được một vài mảnh đuôi tên lửa và rât may mắn tìm được một tên lửa cắm vào máy bay mà không nổ (chiếc máy bay này cố gắng hạ cánh nhưng không được). Các đầu dò và phần điện tử được Trung Quốc tháo ra giữ lại rồi chuyển tên lửa sang Liên Xô yêu cầu phân tích giúp đỡ. Người Liên Xô từ đó chế tạo ra R-13, tên lửa dùng trên MIG-21, rất giống AIM-9. Mãi đến tận cuối thế kỷ 20, phương Tây cõng không biết tại sao thiết kế AIM-9 lại thất thoát. Trung Quốc giữ lại phần điện tử để hy vọng có được tên lửa tốt hơn Liên Xô sau này. Do quá dễ dàng có được kỹ thuật cao, người Trung Quốc hoàn toàn dốt nát trong kế hoạch phát triển kỹ thuật và nghĩ rằng, dễ dàng sở hữu kỹ thuật cao. Thực tế cho thấy, 30 năm sau họ cũng không thể chế tạo được các đầu dò hồng ngoại tốt.

MIG-17 đã bắt đầu tham chiến trong bối cảnh như vậy.

MIG-17 là những máy bay đầu tiên không quân Việt Nam sử dụng đánh lại không quân Mỹ. Không quân Việt Nam rèn luyện hết sức chu đáo, chiến đấu dũng cảm và sáng tạo, ngay từ đầu đã chứng tỏ ưu việt. Nói "Trên thực tế, các phi công thích MiG-17 hơn MiG-21 trong cuộc chiến tranh (Việt Nam)" là sai. Máy bay MIG-21 vẫn là máy bay thế hệ sau, thời cuối chiến tranh năm 1970-1972, các MIG-17 đã hoàn toàn vắng bóng trong không chiến. Tuy nhiên, MIG-17 để lại ấn tượng lớn, do khả năng hết sức linh hoạt của nó và đặc biệt là một máy bay cổ lỗ chiến thắng máy bay hiện đại. Trung Quốc và Triều Tiên cũng cử những đơn vị không quân chiến đấu tiên tiến nhất sang để học tập kinh nghiệm, những người này chiến đấu rất kém, tổn thất nặng nề, hầu như không giúp gì được cho Không Quân Việt Nam. (Nghĩa Trang Liệt Sĩ phi công Triều Tiên ở Bắc Giang). Ngược lại, một số phi công người Trung Quốc quốc tịch Việt Nam, trong biên chế không quân Việt Nam lại chiến đấu giỏi. MIG-17 được nhân dân và phi công Việt Nam yêu mến gọi tên là "én bạc". Máy bay cổ đến mức gọi là "out of date" được phi công Việt Nam sử dụng xuất sắc, nhiều lần bắn hạ loại F-4 không chiến, máy bay hiện đại nhất của Mỹ. Người Tầu thì quá sợ hãi việc dùng máy bay bắn súng đánh máy bay phóng tên lửa, còn Việt Nam thì ngược lại, tìm được những ưu thế của súng, làm cho Mỹ phải cải tiến F-4, trang bị trở lại súng mà trước đây F-4 đã bỏ. Cuộc chiến của Không Quân Việt Nam kéo dài, qua nhiều thăng trầm, nhiều thời kỳ khó khăn, nhưng người Việt Nam không ngừng sáng tạo, đưa ra và thử nghiệm nhiều chiến thuật mới. Người Mỹ cũng liên tiếp sáng tạo chiến thuật và vũ khí. Ngày nay, các trận chiến đấu trên bầu trời Bắc Việt được nghiên cữu kỹ càng, được giảng dậy trong các trường phi công chiến đấu như một cuộc chiến tranh không quân kinh điển. Cùng với nghiên cứu, các phi công Mỹ và Việt Nam cũng để lại nhiều hồi ký. Nhìn chung, các phi công Mỹ rất tôn trọng các phi công Việt Nam, không tiếc lời ca ngợi. Hồi ký phi công Việt Nam cũng kể lại rất nhiều mưu mẹo của phi công Mỹ và những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua. Hồi ký phi công Việt Nam kể lại nhiều giai đoạn thương vong đến vắng cả doanh trại. Để miêu tả cuộc chiến này cần những quyển sách dầy. Ở đây, tôi giới thiệu với các bạn một vài trận đánh được cả hai bên ghi lại. Hai chiến thuật được phi công Việt Nam sử dụng nhiều khi bay MIG-17 là bay vòng tròn cắt đường kính ở độ cao trung bình thấp và tiến công đối đầu ngoặt gấp. Đây là hai chiến thuật cổ điển hay được dùng trong Thế chiến 2. Chiến thuật bay vòng tròn sử dụng để bảo vệ mục tiêu, các máy bay nối đuôi nhau thành vòng tròn chờ địch đến. Máy bay dịch buộc phải chiến đấu để làm nhiệm vụ tiến công mục tiêu mặt đất. MIG-17 có thể vòng bán kính rất hẹp, khi một MIG bị truy đuổi, MIG khác phía sau liền ở vào thế thuận lợi để bắn kẻ tiến công. Các máy bay Mỹ có bán kính vòng lượn lớn, mất tốc độ nhiều khi đổi hướng, thiếu súng. Chiến thuật tấn công đối đầu là các MIG-17 lao thẳng vào đội hình địch, bắn súng phủ đầu và tránh tên lửa, sử dụng lợi thế ngoặt gấp tạo ưu thế các đợt nổ súng tiếp sau. Các cuộc chiến đấu của Không Quân Việt Nam được tính toán kỹ càng, dẫn đường hỗ trợ bằng những chuyên gia rất thiện chiến. Một trong những nhược điểm của MIG-17 và MIG-19 là thời gian bay ngắn và tốc độ, gia tốc thấp. Nếu MIG bỏ trận đánh trước thì dễ dàng bị máy bay Mỹ đổi theo bắn rụng Đồng thời, các máy bay Mỹ đông áp đảo nên để thắng lợi, thời điểm giao chiến phải được tính toán kỹ càng. Không ai trong số các sỹ quan Mỹ nghĩ rằng các MIG-17 có thể đương đầu với máy bay Mỹ, nên MIG-17 đã để lại một ấn tượng sâu sắc sau chiến tranh. MIG thường cất cánh các phi đội nhỏ, và cũng như người viết bài nhận xét, thông thường các máy bay Mỹ phải vứt bom đi, bỏ nhiệm vụ để đối phó. Nhìn chung, cả Việt Nam và Mỹ đều nghiêm túc tính toán kỹ càng khi xuất trận và ghi chép báo cáo rất tỷ mỷ diễn biến để rút kinh nghiệm. Các chiến thuật được thảo luận kỹ càng, sâu rộng và cuộc chiến này để lại rất nhiều bài học. Nguyên nhân thua đau của Tiều Tiên và Trung Quốc là thiếu điều đó, họ tin rằng, tinh thần dũng cảm của họ sẽ chiến thắng vũ khí hiện đại và một đội quân rất giầu kiến thức, tiền bạc(tuy nhiên, cái mà người Trung Quốc dựa vào là lòng dũng cảm có vẻ không nhiều nhặn gì).

Các loại MIG của Việt Nam gặp không ít bài học đắt giá, đây là hai trận đánh tuyệt vời của không quân Mỹ. Lúc 11 giờ 30 phút ngày 10 tháng 7 năm 1965, hai chiếc MIG-17 do Phan Thanh Nhạ, Nguyễn Cương lái tuần tiễu rơi ở Phổ Yên, Thái Nguyên, độ cao 7000 mét, tốc độ 750km/h. Các máy bay tác chiến điện tử E-2A phát hiện MIG tuần tiễu goị máy bay F-4C. Nhóm máy bay Mỹ do Murphy chỉ huy bay tránh. radar Vỉệt Nam từ căn cứ Udon, Thái Lan. Sỹ quan dẫn đường Việt Nam Việt Thành trình độ rất kém nhưng nhờ khôn khéo quan hệ với các cấp chỉ huy chính trị nên vẫn được thực hiện nhiệm vụ. Một MIG trúng 8 tên lửa vỡ tan còn chiếc kia trúng ít nhất 4 quả, nhưng hệ thống theo dõi của Việt Nam không hề phát hiện dấu vết các F-4, chỉ đến khi tiếp xúc với dân vùng xảy ra trận đánh mới khẳng định bị bắn rơi. Trước đó vài ngày, phi công Lai bị hai máy bay AD-6 lừa đâm vào núi ở Kim Bôi, Hòa Bình, không kịp nhảy dù.

Đào Đình Luyện, sau này là bộ trưởng Quốc Phòng là người phi công chỉ huy những MIG-17 đầu tiên trở về Tổ Quốc sau thời gian huấn luyện, ngày 6 tháng 8 năm 1964 Hồi 10 giờ 35 phút. Đội bay xuất phát từ sân bay Mông Tự, Vân Nam, Trung Quốc về một sân bay vừa được xây dựng xong. Ngày nay, sân bay Nội Bài là sân bay quốc tế của thành phố Hà Nội. Phi đội đầu tiên về nước gồn 4 máy bay, ba phi công khác là Phạm Ngọc Lan, Tào Minh, Lâm Văn Lích. Tối hôm đó, qua tin tình báo, đài BBC đã loan tin này và hôm sau, ngày 7-8, một máy bay do thám U-2 bay qua bầu trời căn cứ không quân mới. Lúc này, không quân Mỹ vẫn còn rất chủ quan khinh địch. Tướng J.Paul, chỉ huy tầu sân bay USS Constellation còn tuyên bố rằng, cuộc chiến đấu với phi công Việt Nam chỉ là chò trơi. Các máy bay trinh sát cho phép người Mỹ nắm rõ lực lượng không quân non trẻ, một dúm máy bay cổ lỗ trú trong những bức tường bằng đất đắp không mái che. Ngược lại với người Mỹ, người Việt Nam hiểu rằng vũ khí của họ rất yếu và ít, nhưng họ trẻ và được sự giúp đỡ quốc tế to lớn. Ngay khi những trận không chiến đầu tiên sắp xảy ra, một chiếc tầu ngầm lạ đã đến gần tầu sân bay USS Constellation trong vịnh Bắc Bộ, làm tầu này phải báo động. Sau này, các mạng tình báo và kỹ thuật nước ngoài giúp Việt Nam theo dõi được hoạt động của những căn cứ xa xôi như Hawaii và các tầu sân bay trên biển. Ngày 2 tháng 4 năm 1965, các tầu ngầm, tầu trinh sát điện tử và vệ tinh nước ngoài báo tình hình cho Việt Nam. 5 giờ chiều, trung đoàn không quân 931 nhận được lệnh từ Quân Chủng Phòng Không Không Quân, ngày mai địch sẽ đánh cầu Hàm Rổng (Thanh Hóa) từ các tầu sân bay trên vịnh Bắc Bộ, MIG-17 xuất kích đánh chặn. 3 giờ 30 sáng ngày 3-4, máy bay đã chuẩn bị xong. Các phi công đánh chặn Phạm Ngọc Lan, Phan Văn Túc, Hồ Văn Quỳ, Trần Minh Phương ở vị trí trực chiến. Dẫn đường được giao cho Bùi Quang Liên và Trần Quang. Đại úy Trần Hanh và Thiếu úy Phạm Giấy sẽ lái hai máy bay nghi binh, thu hút máy bay hộ tống Mỹ. Các bác sĩ Chính, Hạnh báo cáo tình tình sức khỏe phi công lần cuối cho Trung Đoàn trưởng Đào Đình Luyện và tham mưu trưởng Đại úy Hà Chấp. Họ đã chuẩn bị hoàn toàn xong việc tiến công hơn 60 máy bay Mỹ. 7 giờ 30, phi đội Phạm Ngọc Lan chuyển sang cấp 2, phi đội Trần Hanh chuyển sang cấp 1. Người Việt Nam chọn được một thời điểm hợp lý, khi tốp đầu của Mỹ ném bom mục tiêu xong quay ra thì phi đội nghi binh Trần Hanh xuất phát, hướng về Nho Quan, Ninh Bình. Crommell chỉ huy đội hộ tống Mỹ đuổi theo Trần Hanh, Phạm Ngọc Lan được dẫn đường Trần Quang thông báo, cách địch 45km thì ném thùng dầu phụ chuyển sang trạng thái tấn công. Phạm Ngọc Lan hết dầu phải hạ cánh khẩn cấp xuống một bãi cát, anh bắn hạ chiếc F-8E của Robert (cứu được trên biển), Túc bắn rơi một chiếc nữa. Người Việt Nam không tận hưởng niềm vui của chiến thắng đầu tiên, các phi công báo cáo: chiến đầu không hiệu quả, tiêu tốn nhiều đạn cho hai mục tiêu (686viên đạn, trong đó, 160 viên 37 ly và 526 viên đạn cỡ 23 ly). Hôm sau, 3 phi công Việt Nam mất: Phạm Giấy, Lê Minh Huân, Trần Nguyên Năm. Trần Hanh bị đuổi về phía Nam, hết dầu hạ cánh xuống bãi làng Ké Tàm. Mỹ mất 2 chiếc F-105D do không chiến (James Magnusson mất tích, Smitty Harris chết. Tuy nhiên, người Mỹ tin rằng Smitty Harris trúng pháo phòng không). Điều mà người Mỹ sợ hơn là họ phát hiện các phi công Việt Nam tránh tên lửa, nhiều khi hàng chục quả tên lửa cùng lúc bắn trượt. Người Việt nam lần đầu tiên không chiến với F-4C, máy bay không chiến hiện đại nhất của Mỹ lúc đó. Ngày 17-6 năm 1965, lần đầu tiên MIG-17 "out of date" bắn hạ hai chiếc F-4 hộ tống trong trận đánh thứ 3 của Không Quân Nhân Dân Việt Nam.. Trọng Lê bị F-4 lừa va vào núi hy sinh, Nguyễn Nhật cháy nhảy dù.

Ngay sau những trận đánh đầu tiên, hai bên đều hiểu rằng, họ đã bắt đầu một cuộc chiến tàn khốc, lâu dài với một đối thủ rất giỏi.

MIG-17 tiếp tục làm điều không thể tin được trước đây, là đánh nhau và hạ F-4. Ngày 6 tháng 11 năm 1965, MIG-17 bắn rơi một CH-30 cứu hộ, 4 phi công bị bắt làm tù binh.. Cuối năm 1965, trung đoàn tiêm kích MIG-21 về nước, ngay lập tức gây những thiệt hại lớn cho Mỹ. Dần dần, MIG-21 thay thế các MIG-17.

Trận đánh MIG-17 các phi công Mỹ nhớ nhất diễn ra ở ven biển, gần Hải Phòng. 24-4-1967. Nguyễn Văn Bẩy cất cánh từ sân bay Kiến An, F-8C No 146915 do phi công E.J.Tucker lái bị anh đánh bất ngờ (Tucker bị thương sau đó chết trong trại tù binh). Các F-4 hộ tống lao vào phản công, chứng kiến đẳng cấp của phi công Việt Nam, họ miêu tả: Bẩy lắc mình tránh hai đợt tên lửa, lao thẳng vào chiếc F-4 hộ tống do C.E. Southwick và Ens. J.W. Land lái, hạ chiếc này (cả hai đều được cứu). Bẩy bắn ở tầm rất gần đến mức ngòi nổ an toàn của đạn không kích nổ để bảo vệ người bắn, tức chỉ vài chục mét, luồn xuống dưới mục tiêu thoát hiểm (ngòi nổ này đã cứu hai phi công trên). Cả hai phi công Mỹ đều không kịp hiểu cái gì bắn rơi họ. Ngày hôm sau, Bẩy lại cùng đồng đội hạ hai A-4C. Số 147799 lái bởi Lt. C.D. Stackhouse bị bắt làm tù binh và số 151102, lái bởi Lt(jg) A.R. Crebo, cứu được.

Sửa lại cho dễ coi, và đính chính: Đào Đình Luyện mang chức vụ cao nhất là Thứ trưởng Quốc phòng, kiêm Tổng tham mưu trưởng, hàm Thượng tướng. Thái Nhi 02:05, ngày 17 tháng 6 năm 2006 (UTC)Trả lời

Về phiên bản không người lái. sửa

SDK-7 là máy bay có người lái thử nghiệm để tiến tới máy bay không người lái. Các máy bay MIG-9, MIG-15 và MIG-17, MIG-19 đều có các phiên bản thử nghiệm này. SDK-5 và SDK-7 của MIG-15 và MIG-17 dùng để thử nghiệm tên lửa chống chiến hạm. Sau này, sản phẩm từ SDK-5 được sản xuất hàng loạt với tên KS-1, tên lửa chống chiến hạm, dẫn đường radio và radar. Xuát phát từ máy bay mẹ TU-16.

Một vài hình ảnh về Radar MIG-17. SDK có cấu hình một radar ngắm bắn như SP-2. SP-2.

Tập tin:Mig17sp2-i.jpg

SP-6

Tập tin:Mig17sp6-i.jpg

Quay lại trang “Mikoyan-Gurevich MiG-17”.