Thảo luận:Văn Lang

Bình luận mới nhất: 3 năm trước bởi 1.54.202.185 trong đề tài BQV lạm quyền xóa không lí do

2796 năm sửa

Văn Lang tồn tại trong 2796 năm? Con số trên ở đâu ra nhỉ? Tôi đã comment out con số trên. Vì Đại Việt sử ký toàn thư viết:

từ Kinh Dương Vương được phong năm Nhâm Tuất, cùng thời với Đế Nghi, truyền đến cuối thời vua Hùng Vương, ngang với đời Noãn Vương nhà Chu năm thứ 57 [258 TCN] là năm Quý Mão thì hết, tất cả 2.622 năm [2879 - 258 TCN].

Tmct 19:10, ngày 21 tháng 12 năm 2006 (UTC)Trả lời

Nếu Tmct nói "Văn Lang" tồn tại trong 2796 năm và chấm dứt năm 258 TCN. Vậy nghĩa là "Văn Lang" thành lập năm 3054 TCN?. Tôi thấy bài này hơi ngắn, xin mọi người hãy bổ sung thêm nhiều chi tiết khác cho nó dài ra. 67.150.12.211 23:07, ngày 7 tháng 9 năm 2007 (UTC)Trả lời
Đề nghị 67.150.12.211 không sửa thảo luận của người khác! Tmct (thảo luận) 09:10, ngày 25 tháng 1 năm 2008 (UTC)Trả lời

Nội dung sửa

Vì lý do gì mà bây giờ bài này hầu như chẳng còn thông tin gì nhỉ? Tôi không thấy ai giải thích tại đây. Tmct (thảo luận) 09:10, ngày 25 tháng 1 năm 2008 (UTC)Trả lời

  • Đó là vì thành viên Dongsonvh muốn làm sửa đổi: tách rời khái niệm "Hùng Vương" ra ngoài khái niệm "Văn Lang" (tuy rằng lúc đó thì "Hùng Vương" → "Hồng Bàng"!).
  • Dongsonvh đổi "Hùng Vương" → "Văn Lang" rồi sửa "Văn Lang" để có nội dung nói về "Hùng Vương" (thay vì sửa chính "Hùng Vương"!) và càng sửa càng rắc rối. Để làm một truyện dài ngắn lại... sau khi thấy càng làm sửa đổi càng bị sai thì Dongsonvh kêu gọi giúp (đặc biệt là kêu gọi tôi)!
  • Tôi đang làm việc khác nên Lưu Ly đã giúp tách rời các bài đó -- lúc này chúng ta có 2 bài riêng cho Văn Lang và cho Hùng Vương.
  • Nhưng Lưu Ly quên mang các thông tin cũ của Văn Lang vào bài mới!
  • Tôi đã làm việc đó.
Mekong Bluesman (thảo luận) 09:27, ngày 25 tháng 1 năm 2008 (UTC)Trả lời

Cảm ơn Mekong đã giải thích. Tmct (thảo luận) 09:39, ngày 25 tháng 1 năm 2008 (UTC)Trả lời

Tôi vẫn không hiểu tại sao lúc đó "Hùng Vương" → "Hồng Bàng" mà thành viên Dongsonvh không sửa cái bài "Hùng Vương" mà làm "Hùng Vương" → "Văn Lang" rồi sửa "Văn Lang"!!!
Nếu tôi không nhắn tin cho Dongsonvh thì chúng ta có thể đã mất bài "Văn Lang" và bài "Hùng Vương" mới của Dongsonvh sẽ có ½ về Văn Lang và ½ về Hùng Vương trong khi đó "Vua Hùng" thì → "Hồng Bàng"!!!
Ôi con người!"™
Mekong Bluesman (thảo luận) 09:57, ngày 25 tháng 1 năm 2008 (UTC)Trả lời

Xin lỗi mọi người, do mù mờ về kỹ thuật nên nó cứ rối tung như vậy. Cám ơn Mekong, Luuly đã tách ra từng bài cho dễ viết. Dongsonvh (thảo luận) 11:16, ngày 25 tháng 1 năm 2008 (UTC)Trả lời


Xin chào các bạn,

Minh thấy trong phần Cương Vực của bài này có dẫn "Theo Lĩnh Nam chích quái thì Văn Lang có kinh đô....." nhưng trong phần Tham Khảo thì lại không có đề cập gì đến sách Lĩnh Nam Chích Quái và tác giả, chỉ đề cập đến 2 cuốn sách còn lại.

Vì vậy xin tác giả kiểm chứng và tu bổ. Thành thật cám ơn. --Trần chí Hồng-Tiên (thảo luận) 18:00, ngày 30 tháng 9 năm 2008 (UTC)Trả lời

Lý giải của Hà Văn Tấn sửa

HV Tấn gọi nhà nước Văn Lang là siêu làng thì tôi đọc mà phì cười. Hồi ấy người ta còn dựng nhà trên cây để tránh cọp beo, sử chép như thế, lấy vỏ cây thay áo. Lấy đâu ra tổ chức về làng xã chặt chẽ như bây giờ mà gọi là SIÊU LÀNG ?

Nguoiachau (thảo luận) 00:06, ngày 17 tháng 4 năm 2016 (UTC)Trả lời

Mâu thuẫn 2.622 năm. sửa

- Nước Văn Lang bắt đầu từ khi Hùng Vương dựng nước (Chi tiết người con trưởng làm vua xưng là Hùng Vương), Lạc Long Quân chưa xưng vua nên nước Văn Lang của Hùng Vương không liên quan gì đến bậc cha chú Kinh Dương Vương, Đế Nghi là hợp lý. Do các Sử gia gán ghép truyền thuyết của người Việt với sử Trung Quốc một cách gượng ép nên mới sinh ra 2.622 năm cho 18 đời Vua. Trường hợp chấp nhận ý kiến Hùng Vương, Lạc Long Quân là con cháu dòng họ Bách Việt thì phải xác định tuổi của Lạc Long Quân là khoảng 2.000 năm chứ không chia đều cho 18 đời vua Hùng (Vì chỉ có thần thánh mới sống lâu vậy được). Kiến nghị không lấy thời điểm Kinh Dương Vương làm vua Bách Việt làm điểm khởi đầu cho nước Văn Lang.

- Dân gian đã tin Hùng Vương sinh ra từ Bọc trứng (hiểu là chi tiết không có thực), là con vị thần thánh Lạc Long Quân và phật mẫu Âu Cơ (hiểu là chi tiết không có thực), đời nay đang công nhận là tín ngưỡng. Việc đi tìm bố nhân vật tín ngưỡng là công việc cực kỳ kệch cỡm, vô lý. Xa hơn, Kinh Dương Vương là vua nước Xích Quỷ của người Bách Việt theo sử Trung Quốc là tổ tiên của người Choang (Trung Quốc) chưa xác thực có liên quan gì đến nước Văn Lang. Xem Xích Quỷ.

Tôi ngờ rằng có sai xót tại bản dịch nghĩa Lĩnh nam trích quái do cách dùng chữ. https://nghiencuulichsu.com/2016/10/16/giai-ma-truyen-ho-hong-bang/. Huyền sử truyền miệng không thể văn hoa như vậy được. Cần người am hiểu về ngữ nghĩa văn tự cũ xét kỹ. Songkhovocung (thảo luận) 01:33, ngày 7 tháng 5 năm 2020 (UTC)Trả lời

BQV lạm quyền xóa không lí do sửa

 
P.T.Đ đã xóa thảo luận này của 1.54.202.185 vì cho rằng nó vi phạm thái độ văn minh và/hoặc là tấn công cá nhân.
Việc xóa bỏ diễn ra vào lúc 03:53, ngày 1 tháng 1 năm 2021 (UTC). Nếu bạn muốn xem lại, hãy tra mốc thời gian đó ở lịch sử trang.Trả lời

Quốc danh sửa

1. Tồn nghi

Hầu hết ở thời sơ sử, chưa có cứ liệu xác minh thỏa đáng ở cấp độ khoa học.

Thời gian Quốc danh Chính thể
2879 - 2524 TCN Xích Quỷ
赤鬼, Txiv
Hồng Bàng thị - Hùng vương
2524 - 258 TCN Văn Lang[1]
Minang[2]
文郎
Hồng Bàng thị - Hùng vương
257 - 207 TCN Âu Lạc
Urang, Anak
甌雒, 甌駱
Hồng Bàng thị - An Dương vương
40 - 43 CN Lĩnh Nam
嶺南
Hồng Bàng thị - Trưng vương
2. Chính thức

Hầu như tồn tại ở giai đoạn đã có hiện vật bằng văn bản và thông qua khảo cổ, được chứng nhận ở cấp độ khoa học.

 
Hiện vật Đại Việt quốc quân thành chuyên (大越國軍城塼, "gạch xây thành làm chốn ngự của vua nước Đại Việt") tại di tích cố đô Hoa Lư. Tương đương triều Đinh-Lê.
 
Sao bản Đại Nam nhất thống toàn đồ (大南ー統全圖) do Nguyễn triều Quốc Sử quán khắc in năm 1838.
Thời gian Quốc danh Chính thể
204 TCN - 111 TCN Nam Việt [quốc]
南越[3]
Triệu triều
111 TCN - 938
1407 - 1427
Giao Chỉ [xứ][4]
交址, 交阯, 交趾
Bắc thuộc
203 - 544
602 - 607
Giao châu
交州
Bắc thuộc
544 - 602 Vạn Xuân [quốc]
萬春
Tiền Lý triều
679 - 757
766 - 866
An Nam [phủ]
安南
Bắc thuộc
757 - 766 Trấn Nam [phủ]
鎮南
Bắc thuộc
866 - 965 Tĩnh Hải [quân]
靜海
Bắc thuộc
968 - 1054 Đại Cồ-việt [quốc][5]
大瞿越
Đinh triều
Tiền Lê triều
Lý triều
1054 - 1400
1428 - 1804
Đại Việt [quốc][6]
大越
Lý triều
Trần triều
Hậu Lê triều
Mạc triều
Tây Sơn triều
Nguyễn triều
1400 - 1407 Đại Ngu [quốc]
大虞
Hồ triều
1804 - 1839 Việt Nam [quốc]
越南
Nguyễn triều
1839 - 1945 Đại Nam [quốc]
大南
Nguyễn triều
  • 南方,為子孫基 / Toại giao Nam phương, vị tử tôn trụ chỉ (Ứng Thiệu, Hán quan nghi ; Thái Bình ngự lãm quyển 157).
  • 南方曰蠻,雕題交阯 / Nam phương viết man, điêu đề giao chỉ (Lễ kí).
  • 其俗男女同川而浴,故曰交阯 / Kì tục nam nữ đồng xuyên nhi dục, cố viết giao chỉ (Hậu Hán thư, Nam man Tây Nam di ngoại truyện).
  • 交趾之地頗爲膏腴,徙民居之,始知播植,厥土惟黑壤,厥氣惟雄,故今稱其田為雄田,其民為雄民,有君長亦曰雄王,有輔佐焉亦曰雄侯,分其地以為雄將。(出南越志) (Thái Bình quảng kí).
  • 交趾昔未有郡縣之時,土地有雒田,其田從潮水上下,民墾食其田,因名為雒民,設雒王、雒侯,主諸郡縣。縣多為雒將,雒將銅印青綬 (Giao châu ngoại vực kí).

Quốc hiệu sửa

Xuất hiện từ thái cổ, chưa được công nhận ở giác độ khoa học.

  • Việt Thường thị[7] (越常, 越嘗, 越裳氏) : Gọi phiếm các sắc tộc ở phía Nam Ngũ Lĩnh, chỉ tồn tại trong thư tịch.
  • Lĩnh Ngoại vực (嶺外域) : Xuất hiện ở giai đoạn Tùy-Đường, để phân biệt với Lĩnh Nam là mạn Quảng Tây ngày nay.
  • Hoàng Việt quốc (皇越國) : Quốc hiệu xuất hiện lâu đời nhất, thường mang tính ngoại giao và có trong thư tịch. Hàm nghĩa "nước Việt phương Nam".
  • An Nam quốc (安南國) hoặc Giao Chỉ quốc (交趾國) : Do người Việt phiếm xưng hoặc ngoại nhân phiếm chỉ.
  • Nam Việt quốc (南越國) : Do triều Nguyễn đề xuất lên triều đình Đại Thanh, nhưng bị cự tuyệt.
  • Đại Huế quốc (大化國) : Kiến nghị đổi quốc hiệu năm 1839 bị Nguyễn Thánh Tổ đế phủ quyết. Huế/Hóa hàm nghĩa Thanh Hóa, Thuận Hóa/Huế, giáo hóa.

Chỉ xuất hiện từ cuối thế kỉ XIX theo xu hướng thế giới, được công nhận ở giác độ khoa học.

  • Đại Nam đế quốc (大南帝國) hoặc Empire d'Annam (1858? - 1945) : Chỉ tồn tại trong các văn kiện giao thiệp giữa Nguyễn triều và chính phủ Pháp, được dập trên xu piastre.
  • Union indochinoise (1887 - 1945), Fédération indochinoise (1947 - 1953) hoặc Liên bang Đông Dương.
  • Đại Hùng đế quốc (大雄帝國, 30 tháng 08 năm 1917 - 11 tháng 01 năm 1918) : Chỉ lưu hành trong Binh biến Thái Nguyên.
  • Việt Nam dân quốc[8] (越南民國, 1929? - 1930) : Chỉ lưu hành trong Tổng khởi nghĩa Yên Bái.
  • Đế quốc Việt Nam (越南帝國) : 11 tháng 03 năm 1945 - 23 tháng 08 năm 1945.
  • Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (越南民主共和國) hoặc Việt Nam dân quốc : 1945 - 1947, 10 tháng 10 năm 1954 - 02 tháng 07 năm 1976.
  • Quốc gia Việt Nam (越南國) hoặc État du Viêt-Nam : 1948 - 26 tháng 10 năm 1955.
  • Việt Nam Cộng hòa (越南共和國) : 26 tháng 10 năm 1955 - 30 tháng 04 năm 1975.
  • Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (越南社會主義共和國) : 02 tháng 07 năm 1976 tới nay.

Wiki là trang tri thức đại diện cho ngôn ngữ không đại diện cho quốc gia hay nền chính trị, nếu bạn là người có ăn có học thì tranh luận như một người có ăn có học. Kiến thức không lồng ghép cảm xúc yêu nước, bạn không thích wikipedia thì vui lòng tìm đến website khác.

Đề nghị xóa và ẩn nội dung không phù hợp (tag: P.T.Đ, Ledinhthang).  Đ Ô N G - M I N H  nói với tôi 02:37, ngày 1 tháng 1 năm 2021 (UTC)Trả lời

  1. ^ Shorto, H. A Mon-Khmer Comparative Dictionary, Ed. Paul Sidwell, 2006. #692. p. 217
  2. ^ Michel Ferlus. "Formation of Ethnonyms in Southeast Asia". 42nd International Conference on SinoTibetan Languages and Linguistics, Nov 2009, Chiang Mai, Thailand. 2009. pp. 4-5
  3. ^ Norman, Jerry; Mei, Tsu-lin (1976). “The Austroasiatics in Ancient South China : Some Lexical Evidence”. Monumenta Serica. 32: 274–301. doi:10.1080/02549948.1976.11731121.
  4. ^ Theo giáo sư Trần Như Vĩnh Lạc (Đoàn Thế Ngữ), chữ giao-chỉ (交址, 交阯, 交趾) có thể chỉ là kí âm Việt (cổ âm : K'yượt, gượt, vượt, rượt, lướt).
  5. ^ Theo khảo cổ gia Nguyễn Thị Hậu, cồ-việt có thể tương ứng giao-chỉ về nghĩa, tức là đọc Việt (越) theo lối cổ. Vậy Đại Cồ-việt là 大越.
  6. ^ Theo bà Nguyễn Thị Hậu, đại-việt là sự giản hóa lối phát âm quốc danh Lý triều, nhưng nguyên nghĩa.
  7. ^ 漢語大詞典編輯委員會,漢語大詞典編纂處,漢語大詞典,第九卷,p. 1115,上海辭書出版社,1992.
  8. ^ Stein Tonnesson, Hans Antlov, Asian Forms of the Nation, Routledge, 1996, pp. 117.
Quay lại trang “Văn Lang”.