Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Văn Phú (quan nhà Nguyễn)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Tiểu sử: Alphama Tool, General fixes |
|||
Dòng 14:
[[Tháng hai|Tháng 2]] ([[âm lịch]]) năm [[1942]], sung ông làm Tham tán đại thần, lãnh quyền [[Tổng đốc]] Định Biên (tức [[Gia Định]] và [[Biên Hòa]]), đem binh thuyền vào [[Gia Định]]. Sang [[tháng tư|tháng 4]] ([[âm lịch]]), ông hội quân với Tổng thống [[Lê Văn Đức]] đi đánh quân [[Xiêm]] và quân nổi dậy ở [[núi Tượng]] (nay thuộc [[Tri Tôn]], [[An Giang]]). Thua trận, đối phương bỏ chạy, hai ông mang quân truy đuổi đến tận biên giới của [[Hà Tiên]], rồi mới về lại [[An Giang]]. Việc báo lên, nhà vua thưởng Lê Văn Phú một ''quân công kỷ lục''.
Năm [[1845]], cử ông làm Đề đốc [[Gia Định]], nhưng chưa bao lâu, lại cho ông làm Tổng đốc Định Biên, rồi làm Tổng thống tiểu bộ quân vụ đại thần để hiệp cùng các tướng mang quân sang Trấn Tây ([[Chân Lạp]]). Đến tháng 6 (âm lịch) năm này, thành Nam Vang thất thủ trước sự tấn công của quân Việt, người Chân Lạp về hàng kể hơn 23.000 người...<ref>Con số chép theo ''[[Việt Nam sử lược]]'' (NXB Tân Việt, [[1968]], tr. 467).</ref>. Xét công các tướng, ông được nhà vua thưởng cho một cấp trác dị (có nghĩa là
Sau đó, Lê Văn Phú nhận lệnh trở về [[Huế]]. Tại triều, nhà vua tự tay rót rượu mời ông, và ban cho chén [[ngọc]] và tượng [[ngựa]] bằng [[vàng]].
Năm [[1847]], gặp kỳ đại kế <ref>Cứ 3 năm, triều Nguyễn cho xét công một lần, gọi là kỳ đại kế.</ref>, thăng ông làm Thủy sư Đô thống ở [[Cố đô Huế|Kinh đô Huế]]. Tháng 7 (âm lịch) cùng năm, 12 khẩu súng đồng ghi công bình định Trấn Tây ([[Chân Lạp]]) đã được đúc xong, tên ông được khắc ở cỗ súng
[[Tự Đức]] năm thứ 1 ([[1848]]), đổi Lê Văn Phú làm Tổng đốc Hà Ninh (tức [[Hà Nội]] và [[Ninh Bình]]), rồi thăng làm Tả quân Đô thống phủ Đô thống.
|