Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tiền tệ Việt Nam thời Bắc thuộc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n using AWB
n Alphama Tool, General fixes
Dòng 4:
Dưới thời [[Văn Lang]] và [[Âu Lạc]], Việt Nam chưa có tiền tệ. Trong đời sống kinh tế, việc tiêu dùng được thực hiện qua trao đổi sản phẩm với nhau<ref name="ldt51">Lục Đức Thuận, Võ Quốc Ky, sách đã dẫn, tr 51</ref>. Đương thời tại [[Trung Quốc]], tiền tệ đã có từ trước thời [[Tần Thủy Hoàng]]. Kết quả khảo cổ cho thấy những đồng tiền thời [[Xuân Thu]] – [[Chiến Quốc]] chỉ được tìm thấy tại lưu vực sông [[Hoàng Hà]] mà không có ở miền Nam [[Trung Quốc]]<ref name="ldt52">Lục Đức Thuận, Võ Quốc Ky, sách đã dẫn, tr 52</ref>.
 
Những đồng tiền đầu tiên lưu hành tại Việt Nam là tiền thời [[Nhà Hán|Tây Hán]]<ref name="ldt52"/>. Tiền “bán"bán lạng”lạng" của nhà Tây Hán vốn ra đời từ thời Tần. Khi [[Tần Thủy Hoàng]] thống nhất [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]] đã thống nhất các đơn vị tiền tệ trong nước theo một hệ thống, xóa bỏ hệ thống tiền tệ cũ của 6 nước. Theo cách tính trọng lượng đương thời, mỗi thù nặng 0,646 gram, 1 lạng = 24 thù = 15,504 gram. Tiền “bán"bán lạng”lạng" là tiền có trọng lượng bằng nửa lạng, tức là 12 thù, tương đương 7,752 gram.
 
Tiền bán lạng loại to nặng đúng 12 thù chỉ có vào thời Tần sang đầu thời Tây Hán. Sang thời Tây Hán, kể từ thời [[Lã hậu|Lã Hậu]] trở đi, triều đình phương Bắc không còn đúc những đồng tiền lớn nữa. Những đồng tiền dù trên mặt vẫn ghi “bán"bán lạng”lạng" nhưng trọng lượng thực tế bị giảm dần, từ 8 thù xuống 5 thù, thậm chí chỉ còn 4 hay 3 thù. Tiền bán lạng loại lớn 12 thù không được tìm thấy tại Việt Nam.
 
Sau đó nhà Tây Hán chính thức đúc những đồng tiền “ngũ"ngũ thù”thù" (trọng lượng 5 thù thay vì 12 thù như trước đây), tương đương 3,23 gram, với hai chữ “ngũ"ngũ thù”thù" đúc trên mặt đồng tiền. Với kỹ thuật thời đó chưa chính xác cao, các đồng tiền có trọng lượng dao động từ 3-4 gram. Đây là những đồng tiền đầu tiên lưu hành tại Việt Nam trong thời [[Bắc thuộc]]<ref name="ldt52"/>.
 
Sau đó, những chứng tích mà các nhà khảo cổ tìm được trong các di chỉ khảo cổ là tiền “Đại"Đại Truyền ngũ tập”tập", “trị"trị bách ngũ thù”thù"“hóa"hóa tuyền”tuyền" của [[Vương Mãng]], “Thế"Thế Bình”Bình", “Thái"Thái Bình”Bình" hay “Đình"Đình Bình”Bình" của [[Tôn Quyền]] trước khi xưng vương ([[222]]), tiền “ngũ"ngũ thù”thù" của [[nhà Tùy]] (581-618). Duy có đồng tiền “tứ"tứ thù”thù" của nhà [[Lưu Tống]] ([[420]]-[[479]]) thời [[Nam-Bắc triều (Trung Quốc)|Nam Bắc triều]] thì không được giới khảo cổ tìm thấy tại Việt Nam<ref name="ldt53">Lục Đức Thuận, Võ Quốc Ky, sách đã dẫn, tr 53</ref>.
 
Tuy tiền đã lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam khi đó (với tên gọi [[Giao Chỉ]]) nhưng chưa được [[người Việt]] dùng thông dụng<ref name="ldt53"/>. Nhiều đồng tiền “ngũ"ngũ thù”thù" được tìm thấy nhiều trong các ngôi mộ cổ thời Hán, cùng những vật tùy thân cho người được mai táng. Do chiến tranh liên miên sau đó dưới các thời [[Tam Quốc]], [[Nam-Bắc triều (Trung Quốc)|Nam Bắc triều]], trọng lượng đồng tiền cũng thay đổi, có khi trên mặt đúc chữ “ngũ"ngũ thù”thù" nhưng trọng lượng thấp hơn. Tuy nhiên đa số vẫn là tiền ngũ thù có trọng lượng trung bình 3-4 gram được sử dụng thông dụng trong thời các triều đại từ Tây Hán tới thời Tùy<ref name="ldt53"/>.
 
Sang thời [[Bắc thuộc lần 3|thuộc Đường]], [[Đường Cao Tổ]] bãi bỏ hết những đồng tiền “ngũ"ngũ thù”thù" trước đây, đúc loại tiền “thông"thông bảo”bảo" – đó là lần đầu tiên [[Trung Quốc]] lưu hành tiền “thông"thông bảo”bảo"<ref name="ldt55">Lục Đức Thuận, Võ Quốc Ky, sách đã dẫn, tr 55</ref>. Tiền Khai Nguyên thông bảo của Đường Minh Hoàng được sử dụng khá rộng rãi trên lãnh thổ Việt Nam khi đó. Tiền không chỉ dùng chi tiêu mà còn sử dụng để đóng sưu thuế<ref name="ldt56">Lục Đức Thuận, Võ Quốc Ky, sách đã dẫn, tr 56</ref>.
 
Về việc tiền Khai Nguyên thông bảo được đúc tại [[Việt Nam]], các sử gia còn chưa thống nhất. Đỗ Văn Ninh và [[Phan Huy Lê]] thống nhất với quan điểm này<ref>Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 363</ref>, còn [[Tạ Chí Đại Trường]] cho rằng bằng chứng về khuôn tiền đá Nguyên Phong vốn chỉ có từ năm [[1077]] (thời [[Nhà Tống|Bắc Tống]] ở Trung Quốc và thời [[nhà Lý]] ở Việt Nam, sau đó 400 năm) nên có thể sau này [[người Việt]] vẫn đúc tiền Khai Nguyên dùng, nhưng bằng khuôn kỹ thuật đương thời chứ không phải của chính thời Khai Nguyên đúc<ref name="ldt55"/>.
Dòng 32:
** Tân An: 608 quan 420 đồng, gồm 303 quan 960 đồng tiền giấy (50%) và 304 quan 462 đồng tiền đồng (50%)
 
[[Trung Quốc]] vào thời [[nhà Minh]] sử dụng cùng lúc cả tiền kim loại và [[tiền giấy]], trong đó tiền giấy khá được chuộng dùng. Tiền giấy nhà Minh đương thời gọi là “Đại"Đại Minh thông hành bảo sao”sao". Tại lãnh thổ Việt Nam khi đó tiền giấy cũng lưu hành khá thông dụng<ref name="ldt65">Lục Đức Thuận, Võ Quốc Ky, sách đã dẫn, tr 65</ref>.
 
== Xem thêm ==