Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tạ Diễm”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
n →‎Khinh địch hại thân: chính tả, replaced: rât → rất
Dòng 18:
Tháng 5 năm thứ 4 (400), Ân quả nhiên quay về cướp Tiếp Khẩu <ref>Nay là [[Trấn Hải]], [[Chiết Giang]]</ref>, vào Dư Diêu, phá Thượng Ngu, đến Hình Phổ cách huyện Sơn Âm 35 dặm về phía bắc. Diễm sai Tham quân Lưu Tuyên Chi đẩy lui nghĩa quân. Không lâu sau Ân lại đến Hình Phổ, đánh bại Thượng Đảng thái thú Trương Kiền Thạc. Nghĩa quân hăng hái tiến lên, lòng người kinh hãi, ai cũng cho rằng nên phòng bị cẩn thận, bày thủy quân ở Nam Hồ, chia quân mai phục để đợi giặc. Diễm không nghe.
 
Ngày Kỷ mão tháng 5 (ngày 7 tháng 7 Dương lịch), Ân đến Hội Kê. Diễm còn chưa dùng cơm, nói: "Diệt trừ bọn cướp này trước đã, ăn sau vậy!", bèn lên ngựa xông ra. Quảng vũ tướng quân [[Hoàn Bảo]] làm tiên phong, hăng hái tiến lên, giết địch râtrất nhiều. Nhưng Diễm lại đi vào đường đê chật hẹp, toàn quân bị dồn lại như xâu cá. Nghĩa quân ngồi trong thuyền hạm vãi tên ra, cắt đứt đài quân làm hai. Diễm đên đình Thiên Thu thì vỡ trận, đô đốc dưới quyền là Trương Mãnh nhằm vào ngựa của Diễm mà chém, ông ngã lăn ra đất, cùng hai con trai là Triệu, Tuấn bị hại. Hoàn Bảo cũng tử trận.
 
Diễm được tặng Thị trung, Tư không, thụy là Trung Túc. Sau này [[Lưu Tống Vũ Đế|Lưu Dụ]] thắng trận Tả Lý, bắt được Trương Mãnh, giao cho con nhỏ của Diễm là Hỗn. Ông ta mổ lấy gan của Mãnh mà ăn sống.