Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Warrington (DD-383)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tây Nam Thái Bình Dương: chính tả, replaced: lẫn tránh → lẩn tránh using AWB
n chính tả, replaced: lổ → lỗ
Dòng 90:
Gần giữa trưa, lệnh báo động phòng không được đưa ra; các tàu chuyển quân và chở hàng đều lên đường để lẩn tránh, và ''Warrington'' tham gia lực lượng bảo vệ phòng không cho nơi neo đậu và bãi đổ bộ. Sau giữa trưa, nó nổ súng vào hai máy bay Nhật Bản băng ngang phía đuôi tàu; chiếc thứ nhất bắt đầu bốc cháy và rơi phía đuôi tàu, trong khi chiếc thứ hai cũng trúng hỏa lực từ các tàu khác, bị bắn rụng nhiều mảnh nhỏ và cuối cùng cũng bị bắn rơi. Vì vậy ''Warrington'' được ghi công bắn rơi một máy bay đối phương và chia sẻ chiến công thứ hai. Đối phương rút lui lúc khoảng 12 giờ 25 phút, và sáu phút sau các tàu vận chuyển tiếp nối công việc của chúng tại mũi Torokina. Đêm hôm đó, nó hộ tống các tàu vận chuyển rỗng quay trở lại Guadalcanal.
 
Trong một tháng tiếp theo sau, ''Warrington'' thực hiện các chuyến hộ tống vận tải giữa Guadalcanal và Espiritu Santo. Vào ngày [[14 tháng 3]], [[1944]], nó nằm trong thành phần bảo vệ chống tàu ngầm cho một đội đặc nhiệm tàu sân bay hộ tống, để hoạt động hỗ trợ cho Lực lượng Đặc nhiệm 37 trong cuộc tấn công lên [[Kavieng]], một căn cứ chủ yếu của Nhật Bản tại đầu mũi Tây Bắc của đảo [[New Ireland (đảo)|New Ireland]]. Cuối tháng đó, nó hộ tống một đoàn tàu vận tải chuyển quân đến [[đảo Emirau]], đến nơi vào ngày [[28 tháng 3]]. Vào ngày [[6 tháng 4]], chiếc tàu khu trục quay trở lại New Hebride, dừng một chặng ngắn tại Espiritu Santo trước khi tiếp tục đi đến [[Efate]], nơi nó tiễn hành khách lên bờ. Vào ngày [[9 tháng 4]], nó quay trở lại cảng Espiritu Santo cho một đợt bảo trì kéo dài 11 ngày.
 
==== New Guinea ====
Dòng 100:
 
==== Bị đắm ====
Công việc trong ụ tàu hoàn tất vào đầu [[tháng 8]], khi ''Warrington'' tiến hành cơ động tại [[Casco Bay]], [[Maine]], rồi đi vào [[Xưởng hải quân Norfolk]] để được tiếp tục cải biến. Vào ngày [[10 tháng 9]], nó rời Norfolk cùng với chiếc {{USS|Hyades|AF-28|2}} để hướng đến [[Trinidad]]. Hai ngày sau, dọc theo bờ biển [[Florida]], hai con tàu gặp phải thời tiết xấu. Đến xế trưa, nó nhận được tin báo đang đi thẳng vào một cơn [[bão]]; đến chiều tối, cơn bão khiến ''Warrington'' bị trôi dạt trong khi ''Hyades'' tiếp tục hành trình một mình. Giữ cho gió và sóng biển ở phía mũi bên mạn trái, chiếc tàu khu trục trải qua được đêm đó an toàn. Tuy nhiên, gió và sóng biển ngày càng mạnh hơn vào sáng sớm ngày [[13 tháng 9]], và nó bắt đầu bị chúi mũi khiến nước tràn vào các khoang động cơ qua các lổlỗ thông gió.
 
Việc mất điện đã khiến gây ra một phản ứng dây chuyền: Các động cơ chính của nó ngừng hoạt động, và động cơ bẻ lái cùng cơ cấu cũng không đáp ứng. Trong khi đó các điện tín viên cố gắng một cách vô vọng để liên lạc với ''Hyades''; cuối cùng một lời kêu cầu cứu bằng bạch thoại được đưa ra cho mọi tàu chiến hay trạm vô tuyến trên bờ. Đến giữa trưa ngày [[13 tháng 9]], rõ ràng là thủy thủ đoàn ''Warrington'' của không thể chiến thắng cuộc chiến nhằm cứu con tàu của họ, và lệnh bỏ tàu được ban ra. Lúc 12 giờ 50 phút, thủy thủ rời tàu, và ''Warrington'' đắm hầu như ngay lập tức sau đó. Một cuộc tim kiếm kéo dài diễn ra sau đó do ''Hyades'', {{USS|Frost|DE-144|2}}, {{USS|Huse|DE-145|2}}, {{USS|Inch|DE-146|2}}, {{USS|Snowden|DE-246|2}}, {{USS|Swasey|DE-248|2}}, {{USS|Woodson|DE-359|2}}, {{USS|Johnnie Hutchins|DE-360|2}}, ''ATR-9'' và ''ATR-62'' thực hiện chỉ cứu được năm sĩ quan và 68 thủy thủ trong tổng số 20 sĩ quan và 301 thủy thủ trong biên chế chiếc tàu khu trục. Tên của được cho rút khỏi danh sách [[Đăng bạ Hải quân]] vào ngày [[23 tháng 9]], [[1944]].