Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bắc phủ binh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Alphama Tool, General fixes
Dòng 3:
==Quá trình tồn tại==
===Thành lập===
Năm Thái Nguyên thứ 2 ([[377|397]]) đời [[Tấn Hiếu Vũ Đế|Đông Tấn Hiếu Vũ đế]], do nhà [[Tiền Tần]] đã thống nhất Bắc bộ [[Trung Quốc]], nhà Đông Tấn phải chịu 1 áp lực quân sự chưa từng có, vì vậy ban chiếu cầu lương tướng đề phòng phương bắc. Đại thần nắm quyền chính khi ấy là [[Tạ An]] tiến cử con trai của anh mình là Tạ Huyền, triều đình nhiệm mệnh Tạ Huyền làm Kiến vũ tướng quân, Duyện Châu thứ sử, lĩnh Quảng Lăng tướng, giám Giang bắc chư quân sự, trấn thủ Quảng Lăng.
 
Bấy giờ Kinh Khẩu <ref>Châu trị của Từ Châu, nay là [[Trấn Giang]], [[Giang Tô]]</ref> và Quảng Lăng <ref>Châu trị của Duyện Châu, nay là [[Dương Châu]], Giang Tô</ref> tụ tập 1 lượng lớn lưu dân chạy nạn từ miền bắc đến, sau khi Tạ Huyền đến nhiệm chức, tại đây tuyển dụng những sĩ tốt kiêu dũng như bọn Lưu Lao Chi, thành lập 1 đội quân <ref name="V1">Tư trị thông giám, tháng 10, năm Thái Nguyên thứ 2, đời Hiếu Vũ Đế chép "玄募骁勇之士,得彭城刘牢之等数人,以牢之为参军,常领精锐为前锋,战无不捷。时号北府兵" (tạm dịch: Huyền mộ những kẻ kiêu dũng, được vài chục người là bọn Lưu Lao Chi, người (quận) Bành Thành, lấy Lao Chi làm Tiền phong. Không trận nào không thắng, thời ấy gọi là Bắc phủ binh.)</ref> <ref name="V2">Tấn thư, [[Lưu Lao Chi]] truyện chép rõ ràng hơn: "太元初,谢玄北镇广陵,时苻坚方盛,玄多募劲勇,牢之与东海何谦、琅琊诸葛侃、平安高衡、东平刘轨、西河田洛及晋陵孙无终等以骁勇应选。选以牢之为参军,领精锐为前锋,百战百胜,号为北府兵,敌人畏之" (tạm dịch: Đầu những năm Thái Nguyên, Tạ Huyền trấn thủ Quảng Lăng, khi ấy [[Phù Kiên]] đang thịnh. Huyền mộ nhiều người khỏe mạnh, Lao Chi cùng bọn [[Hà Khiêm]] người (quận) Đông Hải, [[Gia Cát Khản]] người (quận) Lang Gia, [[Cao Hành]] người (quận) Bình An, [[Lưu Quỹ]] người (quận) Đông Bình, [[Điền Lạc]] người (quận) Tây Hà và [[Tôn Vô Chung]] người (quận) Tấn Lăng nhờ kiêu dũng mà trúng tuyển. Chọn Lao Chi làm tham quân, lĩnh quân tinh nhuệ đi tiền phong, trăm trận trăm thắng, gọi là Bắc phủ binh, kẻ địch khiếp sợ bọn họ.)</ref>.