Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lãnh binh Thăng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 7:
Xuất thân trong một gia đình nông dân, từ [[miền Trung (Việt Nam)|miền Trung]] vào lập nghiệp đã lâu nên khá giả.
 
Cha ông tên Nguyễn Công, mẹ là Trần Thị Kiếm. Cha mẹ ông sinh được ba người con, ông là con trai trưởng. Từ thuở tiếuthiếu niên, Nguyễn Ngọc Thăng phải giúp cha mẹ nhiều công việc đồng áng và tỏ ra ham học, thông minh, có thiên hướng về võ nghệ. Do vậy, ngoài học [[chữ Hán]] của các thầy đồ trong làng, ông còn cùng với bạn bè trang lứa tìm đến các lò võ xung quanh vùng để học võ nghệ.<ref name="Sách p 1"/>
 
Lớn lên, ông đăng lính triều đình. Vốn thông minh và giỏi võ nghệ, nên trong thời gian ở quân đội, ông luôn được cấp trên quan tâm. Đến năm [[1848]], dưới thời [[Tự Đức]], ông được thăng chức lãnh binh.
Dòng 13:
 
===Chống thực dân Pháp===
Mờ sáng ngày 1 [[tháng chín|tháng 9]] năm [[Mậu Ngọ]] (1858), năm [[Tự Đức]] thứ 11, quân [[Đế quốc thực dân Pháp|Pháp]] nổ súng đánh [[Đà Nẵng]]. Sau 5 tháng giao tranh, quân Pháp vẫn bị cầm chân ở nơi đấyđây. Theo lệnh của tướng Pháp tên Rigault de Genouilly, hai phần ba số lính Pháp kéo vào tấn công thành [[Gia Định]].
 
Ngày 17 [[tháng hai|tháng 2]] năm [[1859]], quân Pháp đổ bộ, nã đại pháo và dùng chất nổ đánh thủng cửa Đông thành. Quân Pháp dùng thang cao leo vào, pháo của quân Việt từ trên thành bắn xuống, nhưng không mấy hiệu quả... Nhận được tin, Lãnh Binh Thăng đem binh từ Thủ Thiêm đến cứu viện, nhưng chưa kịp đến nơi thì thành Gia Định đã bị đối phương chiếm lấy, sau khi đôi bên giáp mặt đánh nhau rất ác liệt.