Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tư tưởng Hồ Chí Minh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đã cứu 2 nguồn và đánh dấu 0 nguồn là hỏng.) #IABot (v2.0.8.1
n clean up, replaced: {{tham khảo|2}} → {{tham khảo|30em}}, [[File: → [[Tập tin: using AWB
Dòng 1:
{{pp-30-500|small=yes}}
{{Chủ nghĩa Marx-Lenin}}
[[FileTập tin:Ho Chi Minh 1946.jpg|nhỏ|Chân dung [[Chủ tịch Hồ Chí Minh]]]]
'''Tư tưởng Hồ Chí Minh''' là một hệ thống quan điểm và [[tư tưởng]] của [[Hồ Chí Minh]] trong sự nghiệp cách mạng của ông được [[Đảng Cộng sản Việt Nam]] tổng kết, hệ thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ bản của [[cách mạng Việt Nam]],<ref name="tthcm">Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản chính trị quốc gia. 2009, trang 10</ref> từ [[cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân]] đến cách mạng [[xã hội chủ nghĩa]]; vận dụng và phát triển [[Chủ nghĩa Mác-Lênin]] vào điều kiện cụ thể của [[Việt Nam]].<ref>Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản chính trị quốc gia. 2009, trang 14</ref>
 
Dòng 43:
 
=== Tư tưởng Đông - Tây ===
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở tiếp thu tư tưởng Đông - Tây mà trước hết là tư tưởng phương Đông mà đặc trưng là Phật giáo và Nho giáo đã được Việt hóa. Phật giáo và Nho giáo Việt Nam đã tác động tới Hồ Chí Minh ngay từ khi còn nhỏ ở trong môi trường giáo dục - văn hóa Việt của làng xã Việt Nam, dưới sự dạy bảo của gia đình với người cha, vừa là thầy và những nhà nho yêu nước khác. Sau này, khi trở thành người cộng sản, ông vẫn tiếp tục tìm hiểu những trào lưu tư tưởng mới ở Ấn Độ và Trung Hoa mà điển hình là chủ nghĩa Gāndhī và chủ nghĩa Tôn Dật Tiên. Ông đã tìm thấy trong “''chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta''”.
 
Năm 1923, trong lý lịch tự khai khi đến Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tự giới thiệu: ''"Tôi xuất thân từ một gia đình nhà Nho, nơi mà các thanh niên đều theo học đạo Khổng"''. Rồi tại Đại hội Quốc tế cộng sản năm 1935, Nguyễn Ái Quốc lại ghi trong lý lịch: ''"Thành phần gia đình nhà nho"''.
 
Sự tương đồng giữa thuyết Đại đồng của Nho giáo và chủ nghĩa cộng sản khiến Hồ Chí Minh và nhiều nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam khác có nền tảng Nho học dễ dàng chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh thấy được khả năng thích ứng của chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam do sự tương đồng giữa chủ nghĩa cộng sản và lý tưởng Đại đồng của Nho giáo. Ông dùng những từ ngữ, những mệnh đề của Khổng Tử vốn rất quen thuộc với truyền thống văn hoá Việt Nam để kết nối những giá trị chung trong học thuyết Nho giáo và học thuyết Marx. Trong bài ''Le Grand Confucius'' (Đức Khổng Tử vĩ đại) đăng trên tạp chí Communise số ra ngày 15/05/1921, Nguyễn Ái Quốc đã giới thiệu thuyết Đại đồng như sau: ''"Đức Khổng Tử vĩ đại (năm 551 trước Công nguyên) khởi xướng nền đại đồng và thuyết giáo quyền bình đẳng về của cải. Người nói tóm lại là: Nền hoà bình trên thế giới chỉ nảy nở từ nền Đại đồng trong thiên hạ. Người ta không sợ thiếu mà chỉ sợ không công bằng"''.
 
Trong [[chiến tranh Việt Nam]], ở miền Bắc buộc phải thực hiện chế độ phân phối thời chiến, Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở cán bộ về tư tưởng Khổng Tử: ''"Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng, không sợ đói chỉ sợ lòng dân không yên"''.
 
Tổng kết 30 năm tiếp thu các dòng tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh đúc kết:
 
''"Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Marx có ưu điểm là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách thích hợp với điều kiện của nước ta… [[Khổng Tử]], Giêsu, [[Karl Marx]], [[Tôn Dật Tiên]] chẳng phải có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay, họ còn sống trên đời này, nếu họ ở một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất tốt đẹp như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của họ."''<ref>[http://www.xaydungdang.org.vn/Home/tutuonghochiminh/2013/6860/Ho-Chi-Minh-Toi-co-gang-lam-nguoi-hoc-tro-nho.aspx Hồ Chí Minh: "Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ..."], Tạp chí Xây dựng Đảng, 20/11/2013</ref>
 
Hồ Chí Minh đã được tiếp xúc với văn hóa phương Tây từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường. Khi học ở trường tiểu học Vinh và Huế, những tư tưởng tiến bộ của Đại cách mạng Pháp về “tự do, bình đẳng, bác ái” đã bắt đầu ảnh hưởng mạnh mẽ đến ông và là một trong những yếu tố tác động đến ông trong việc tìm hướng đi mới sang phương Tây để tìm đường cứu nước, cứu dân.
 
Ba mươi năm sống, lao động, học tập và hoạt động ở nước ngoài, đặc biệt là trong môi trường văn hóa phương Tây, ông đã có điều kiện để tìm hiểu, nghiên cứu và trực tiếp trải nghiệm qua các hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội ở đây; đã trực tiếp tìm hiểu tư tưởng của các nhà khai sáng ([[Voltaire]], [[Jean-Jacques Rousseau]], [[Montesquieu]]..) qua các tác phẩm của họ. Ông đã tới Pháp, Mỹ, Anh và trực tiếp thấy được đời sống xã hội tại những nơi khởi nguồn của ba cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ điển hình trên thế giới. Tư tưởng cách mạng tiến bộ của các cuộc cách mạng này đã tác động mạnh mẽ tới Hồ Chí Minh. Đó là những ''tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa dân tộc và nhân văn trong cách mạng tư sản Mỹ và Pháp'' với quyền dân tộc, quyền con người và tư tưởng dân chủ mà nội dung của nó là tự do, bình đẳng, bác ái. Đây là những điểm mới về tư tưởng trong tinh hoa văn hóa phương Tây đã tác động mạnh mẽ tới suy nghĩ, hành động và tư tưởng của Hồ Chí Minh. Sống trong môi trường dân chủ và thông qua các hoạt động dân chủ trong làm việc, sinh hoạt ở các tổ chức lao động, xã hội và chính trị ở phương Tây, Hồ Chí Minh đã hiểu được các phương thức tổ chức xã hội dân chủ, cách làm việc dân chủ và hình thành phong cách dân chủ.
 
=== Chủ nghĩa Marx - Lenin ===
Hồ Chí Minh đã tiếp thu học thuyết giải phóng con người là chủ nghĩa Marx - Lenin. Khi tiếp nhận chủ nghĩa Marx - Lenin, ông từ người yêu nước trở thành người cộng sản khi trở thành người tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp.
 
Đến với chủ nghĩa Marx - Lenin từ đòi hỏi của thực tiễn giải phóng dân tộc và con người, từ nhu cầu chung của nhân loại về quyền dân tộc, quyền con người, Hồ Chí Minh đã vận dụng thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Marx - Lenin để nghiên cứu thực tiễn Việt Nam và thế giới và tự tìm ra con đường của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, chủ nghĩa Marx - Lenin chính là một nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu có vai trò quyết định trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng chủ nghĩa Marx - Lenin trong hoàn cảnh của Việt Nam.
 
=== Cơ sở thực tiễn ===
Dòng 69:
Việt Nam có lịch sử và văn hiến lâu đời với truyền thống chống giặc ngoại xâm nhưng đến thế kỷ XIX, Việt Nam vẫn là một quốc gia lạc hậu, kém phát triển. Đến giữa thế kỷ XIX, trước sự suy yếu của chế độ phong kiến nhà Nguyễn, đế quốc Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam. Sau khi đã hoàn thành về căn bản công cuộc bình định Việt Nam về mặt quân sự, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam cũng như ở Lào và Campuchia một cách quy mô và từng bước biến Việt Nam từ một nước phong kiến thành nước ''thuộc địa, nửa phong kiến'' với những biến đổi căn bản về chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội. Sự biến đổi đó làm xuất hiện trong xã hội Việt Nam ''những giai tầng mới'' với sự ra đời của giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư sản. Theo đó, bên cạnh mâu thuẫn cơ bản trong xã hội phong kiến là giữa nông dân với địa chủ phong kiến, sự xuất hiện các giai tầng mới đã làm nảy sinh thêm các mâu thuẫn mới: giữa giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp tư sản, giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc Pháp.
 
Trước các biến đổi trên, phong trào cách mạng Việt Nam cũng từng bước có những phát triển mới đó là sự xuất hiện của phong trào yêu nước mới và phong trào công nhân ở Việt Nam.
 
Đầu thế kỷ XX, trước ảnh hưởng của các cuộc vận động cải cách ở Trung Quốc của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu, gương Duy Tân của Nhật Bản, cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc, phong trào yêu nước của Việt Nam chuyển sang ''xu hướng dân chủ tư sản'' với sự dẫn dắt của các sĩ phu yêu nước có tinh thần cải cách như Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Điển hình như các phong trào Đông Du, phong trào Duy Tân, phong trào Đông kinh nghĩa thục... Nhưng tất cả những cố gắng cứu nước của trào lưu mới này ở Việt Nam đều bị thất bại bởi sự đàn áp của thực dân Pháp. Trường Đông kinh nghĩa thục bị đóng cửa (12-1907), phong trào chống thuế ở Trung Kỳ bị đàn áp (1908); vụ Hà Thành đầu độc thất bại (6-1908). Phong trào Đông Du bị tan rã, Phan Bội Châu và các đồng chí bị trục xuất khỏi nước Nhật (2-1909). Phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ bị đàn áp, các thủ lĩnh như Trần Quý Cáp, Nguyễn Hằng Chi bị lên máy chém... Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn bị đày ra Côn Đảo... Dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước này đã nối tiếp nhau duy trì ngọn lửa cứu nước tiếp tục cháy trong lòng dân tộc.
 
Cùng với phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân, sự ra đời và phong trào đấu tranh của giai cấp mới là giai cấp công nhân Việt Nam sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã làm cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam thêm những yếu tố mới. Đặc biệt, từ đầu những năm hai mươi của thế kỷ XX, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng đông lại chịu tác động của phong trào cách mạng thế giới đã làm phong trào đấu tranh mang đặc trưng riêng của giai cấp công nhân càng được thể hiện rõ nét. Đây là nguồn gốc thực tiễn xã hội cực kỳ quan trọng cho sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh.
 
Như vậy, phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam là cơ sở thực tiễn trong nước cho sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh.
 
==== Trên thế giới ====
Dòng 82:
Các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, chủ yếu là do tranh giành thị trường giữa các nước đế quốc, đã dẫn tới chiến tranh thế giới lần thứ nhất (8-1914 đến 11-1918) nhằm chia lại các khu vực ảnh hưởng làm xuất hiện phong trào của nhân dân thế giới đầu tranh đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh đế quốc và đó cũng là một trong những nguyên nhân bùng nổ Cách mạng Tháng Mười Nga. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, với sự ra đời của nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới, đã mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi quốc tế, đã cổ vũ và thúc đẩy sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới''.''
 
Thực tiễn của Cách mạng Tháng Mười, sự ra đời của nhà nước Xô viết, phong trào cách mạng thế giới của giai cấp công nhân phát triển với sự ra đời và dẫn dắt của Quốc tế III cũng như phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới là những nguồn gốc thực tiễn quốc tế cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. 
 
== Quá trình hình thành và phát triển ==
Dòng 360:
 
==== Nguồn gốc ====
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết hợp những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa đạo đức nhân loại; truyền thống với hiện đại; phương Đông và phương Tây, được hình thành và phát triển từ yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc.
 
Theo Hồ Chí Minh “''có học tập lý luận Marx - Lenin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm tốt được tốt công tác Đảng giao phó cho mình''”. Trong khi đề cập đến những nội dung, phẩm chất đạo đức mới, Hồ Chí Minh sử dụng một số thành ngữ dân gian nhưng cải biến nội dung, đưa yêu cầu, nội dung mới vào, có ý nghĩa cách mạng. Đạo đức cách mạng không phủ nhận đạo đức truyền thống, bao gồm đạo đức truyền thống. Đạo đức truyền thống phát triển thành đạo đức cách mạng. Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cộng sản chủ nghĩa nhưng rất Việt Nam cả về nội dung và hình thức. Đó là sự kết hợp sáng tạo nhân sinh quan của chủ nghĩa Marx - Lenin với truyền thống của dân tộc Việt Nam, một dân tộc coi trọng phẩm chất con người và đạo lý làm người với hạt nhân “trồng cây đức để con ăn”, “của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng”.
 
Trong di sản đạo đức Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước đi đôi hài hòa với chủ nghĩa quốc tế. Trong truyền thống, đại nghĩa là cứu nước, đến cách mạng và hiện đại là lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa anh hùng truyền thống, ngày nay là chủ nghĩa anh hùng cách mạng… Hồ Chủ tịch dạy “Trung với nước, hiếu với dân”. Đạo đức cách mạng bao gồm những đức tính và những quan hệ rộng lớn, sâu xa, mới mẻ hơn là đạo đức cổ truyền, như chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng ý thức tập thể, bổn phận, trách nhiệm tận tâm tận lực phục vụ tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
 
Nho giáo là một nguồn gốc hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Sinh ra trong một gia đình nhà Nho, Hồ Chí Minh hiểu rằng “''Khổng giáo không phải là tôn giáo mà là một thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức và phép ứng xử''”. Khổng Tử đứng đầu các nhà hiền triết, được tôn sùng, vì “''đạo đức của ông, học vấn của ông và những kiến thức của ông làm cho những người cùng thời và hậu thế phải cảm phục… Đạo đức của ông là hoàn hảo. Những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử''”.
 
==== Bản chất ====
Dòng 445:
 
== Nguồn tham khảo ==
{{tham khảo|230em}}
 
== Liên kết ngoài ==