Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ninh Hiệp (phường)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Thêm mô tả để nâng cao tính trung lập của bài viết. |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
(không hiển thị 10 phiên bản ở giữa của cùng người dùng) | |||
Dòng 3:
{{Thông tin đơn vị hành chính Việt Nam | phường
| tên = Ninh Hiệp
| hình = Địa giới hành chính phường Ninh Hiệp.jpg
| ghi chú hình = Địa giới hành chính phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa
| vĩ độ = 12
| kinh độ = 109
Dòng 15:
| thời điểm dân số = 2010
| mật độ dân số = 3.714 người/km²
| vùng = [[Duyên hải Nam Trung Bộ]]
| tỉnh = [[Khánh Hòa]]
| thị xã = [[Ninh Hòa]]
| thành lập =
*23/10/1978: thành lập thị trấn '''Ninh Hòa'''<ref name=QD268/>
*25/10/2010: thành lập phường '''Ninh Hiệp'''<ref name=NQ41/>
| chủ tịch UBND = Hồ Duy Tuyên{{fact}}
| trụ sở UBND =
| mã hành chính = 22528<ref>[https://danhmuchanhchinh.gso.gov.vn/ Tổng cục Thống kê]</ref>
| mã bưu chính =
|
}}
'''Ninh Hiệp''' là [[Phường (Việt Nam)|phường]] trung tâm của thị xã [[Ninh Hòa]], tỉnh [[Khánh Hòa]], [[Việt Nam]].
Hiện nay, phường là nơi có các tổ chức cơ quan hành chính nhà nước của thị xã Ninh Hòa.
==Địa lý==
=== Vị trí địa lý ===
Phường Ninh Hiệp nằm ở trung tâm thị xã Ninh Hòa, là nơi giao nhau của [[Quốc lộ 1A]] và [[Quốc lộ 26]]
*
*
*
*
=== Địa hình ===
Phường Ninh Hiệp có cấu tạo [[Địa chất học|địa chất]] chủ yếu là [[đất sét]] chứa nhiều [[phù sa]] do dòng [[Sông Dinh (Khánh Hòa)|sông Dinh]] bồi đắp, tạo sự phù hợp thâm canh [[Lúa nước|cây lúa nước]] và trồng [[hoa màu]]. Tuy vậy, phường Ninh Hiệp thuộc vùng đất trũng nên khi mưa lớn dài ngày, nước từ nguồn chảy về mạnh, dễ gây ngập lụt.{{Cần chú thích}}
=== Khí hậu ===
Đặc trưng của khí hậu phường Ninh Hiệp là [[Khí hậu nhiệt đới gió mùa|nhiệt đới gió mùa]], đồng thời cũng có sự ảnh hưởng của [[Khí hậu đại dương|Khí hậu Đại Dương]] nhưng bị dãy núi Hòn Hèo che chắn ở phía Đông nên tương đối oi bức vào mùa khô, ẩm ướt về mùa mưa.{{Cần chú thích}}
=== Giao thông ===
Về giao thông, địa bàn phường Ninh Hiệp nằm ở ngã ba của [[Quốc lộ 1A]] nối dọc Bắc – Nam và [[Quốc lộ 26]] nối [[Trung Bộ|miền Trung]] - [[Tây Nguyên]]. Trong nội thị có tuyến đường sắt Bắc Nam đi ngang qua địa phận phường.{{Cần chú thích}}
== Dân cư ==
Phường Ninh Hiệp có diện tích 5,94 km², dân số năm 2021 là 23.883 người, mật độ dân số đạt hơn 4000 người/km².<ref name=":0">{{Chú thích web|url=http://ninhhiep.gov.vn/dan-so-lao-dong_n58338_g783.aspx|tựa đề=Dân số - Lao động|website=Cổng thông tin điện tử phường Ninh Hiệp|url-status=live}}</ref>
Phường được chia thành 18 tổ dân phố đánh số từ 1 đến 18.<ref name=":0" />
==Lịch sử==
[[1653|Năm 1653]], dưới thời [[Nguyễn Phúc Tần|chúa Nguyễn Phúc Tần]] (hay ''[[Nguyễn Phúc Tần|Chúa Hiền]]'', [[chữ Hán]]: 阮福瀕), phường Ninh Hiệp là nơi đóng phủ đường Thái Khang ở bờ Bắc [[Sông Cái Ninh Hòa|sông Cái]] (thuộc làng Phước Đa), huyện đường Tân Định đóng ở bờ Nam sông Cái (thuộc làng Mỹ Hiệp, nay thuộc khu vực Trụ sở Ủy ban nhân dân thị xã Ninh Hòa).<ref>{{Chú thích web|url=http://ninhhiep.gov.vn/lich-su-hinh-thanh-phuong-ninh-hiep_n58335_g781.aspx|tựa đề=Lịch sử hình thành phường Ninh Hiệp|website=ninhhiep.gov.vn|ngôn ngữ=vi|ngày truy cập=2022-02-23}}</ref>
Hàng 57 ⟶ 63:
Sau [[Cách mạng tháng Tám năm 1945|Cách mạng Tháng tám năm 1945]], tên của làng, tổng, phủ vẫn giữ nguyên như cũ. Đầu [[1946|năm 1946]], phủ Ninh Hòa được chia thành 6 khu kháng chiến và khu phố Ninh Hòa thuộc vùng Tây (gồm các xã Hòa Trí, Ninh Phước, Liên An, và khu phố Ninh Hòa. Từ [[1964|năm 1964]], khu phố Ninh Hòa thuộc huyện Nam Ninh Hòa (còn gọi là 301).
Sau [[Chiến dịch Hồ Chí Minh]], [[Chính phủ]] nước [[Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam|Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam]] ban hành Quyết định số 268 –CP ngày [[23 tháng 10]] năm 1978<ref name="QD268">{{Chú thích web|url=https://thuvienphapluat.vn/van-ban/bo-may-hanh-chinh/Quyet-dinh-268-CP-thanh-lap-thi-tran-thuoc-huyen-Cam-Ranh-Khanh-Ninh-thuoc-tinh-Phu-Khanh-58112.aspx|tựa đề=Quyết định 268-CP năm 1978 về việc thành lập một số thị trấn thuộc các huyện Cam Ranh và Khánh Ninh thuộc tỉnh Phú Khánh|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|ngày truy cập=|url hỏng=}}</ref>, thành lập thị trấn Ninh Hòa thuộc huyện Khánh Ninh, [[Phú Khánh (tỉnh)|tỉnh Phú Khánh]]. Địa giới thị trấn Ninh Hòa gồm toàn bộ diện tích xã Ninh Hiệp; các thôn Phước Đa 1, Phước đa 2 và Phước Đa 4 của
Ngày [[5
Ngày [[30 tháng 6]] năm [[2009]], Bộ Xây dựng ban hành Quyết định 713/QĐ-BXD về việc công nhận thị trấn Ninh Hòa là [[Đô thị loại IV (Việt Nam)|đô thị loại IV]].<ref>{{Chú thích web|url=http://moc.gov.vn/vn/tin-tuc/1176/17886/cong-nhan-thi-tran-ninh-hoa--huyen-ninh-hoa--tinh-khanh-hoa-la-do-thi-loai-iv.aspx|tựa đề=Công nhận thị trấn Ninh Hòa, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa là đô thị loại IV|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=Bộ Xây dựng|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|ngày truy cập=|url hỏng=}}</ref>
Ngày [[25 tháng 10]] năm [[2010]], Chính phủ ban hành Nghị quyết 41/NQ-CP về việc chuyển huyện Ninh Hòa thành thị xã Ninh Hòa và thành lập phường Ninh Hiệp trên cơ sở toàn bộ 588 ha diện tích tự nhiên, 21.838 người của thị trấn Ninh Hòa.<ref name="NQ41">{{Chú thích web|url=https://thuvienphapluat.vn/van-ban/bo-may-hanh-chinh/Nghi-quyet-41-NQ-CP-thanh-lap-thi-xa-Ninh-Hoa-phuong-thuoc-thi-xa-Ninh-Hoa-113474.aspx|tựa đề=Nghị quyết 41/NQ-CP năm 2010 về việc thành lập thị xã Ninh Hòa và phường thuộc thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|ngày truy cập=|url hỏng=}}</ref>
==== Quỳnh Phủ Hội quán (Hội quán Hải Nam) ====
Quỳnh Phủ Hội quán tọa lạc tại số 170 đường Trần Quý Cáp, phường Ninh Hiệp
Người Hoa kiều gốc [[Hải Nam]] vốn có truyền thống lâu đời là tục thờ [[Thiên Hậu Thánh mẫu|Bà Thiên Hậu]], bất kỳ khi đến đâu, khi đã định cư thì việc đầu tiên là lập miếu để thờ Bà. Theo lời kể được lưu truyền, cách đây 300 năm, ngôi miếu đầu tiên của [[Hải Nam|người Hải Nam]] lập nên ở làng Hội Thành nay thuộc phường [[Ninh Giang (phường)|
Đến năm 1868, miếu Bà Thiên Hậu được người Hải Nam xây dựng tại Ninh Hòa, sau đó xây dựng tiếp miếu [[Quán Thánh (định hướng)|Quan Thánh Đế]] quân cạnh miếu Bà để phụng thờ và người [[Hải Nam]] lấy nơi này làm nơi sinh hoạt Bang hội, nên gọi chung là Quỳnh Phủ Hội quán.
Theo lời người [[Hải Nam]] ở
Năm Kỷ Mùi ([[1859]]) các ông Phan Hữu Hán, Phương Triều Cơ, Phù Thế Quỳnh, Hàm Vân Mã, Hàm Phương Chuẩn… đã cùng nhau vận động bang chúng góp tiền để tích luỹ, mua đất xây Quỳnh Phủ Hội quán. Thiên Hậu Cung là công trình được xây dựng đầu tiên, đồng thời cũng chính là Quỳnh Phủ Hội quán.
Theo văn bia “Thiên Hậu Cung bi ký” do Phan Hữu Luân soạn hiện còn lưu tại Tiền điện Quỳnh Phủ Hội quán: Thiên Hậu Cung được xây dựng vào năm 1686 để thờ [[Thiên Hậu Thánh mẫu]] – một vị thần biển được nhân dân vùng duyên hải phía nam Trung Hoa và Hoa Kiều ở hải ngoại hết lòng sùng bái. Đến những năm đầu thế kỷ XX, Bang Hải Nam ở Ninh
Năm 1936, trường Tiểu học Bình Hoà chính thức ra đời, đây có thể là trường tiểu học tiếng Hoa đầu tiên của cả vùng Nam Trung Bộ và Quỳnh Phủ Hội quán đã trở thành một thiết chế văn hoá mang tính tổng hợp nhất với Thiên Hậu Cung, Quan Thánh miếu và Trường Tiểu học Bình Hoà. Nó đã trở thành ngôi nhà chung của không những Hoa kiều Hải Nam mà còn có tất cả Hoa kiều đang sinh sống ở Ninh
Quỳnh Phủ Hội Quán (tức Hội quán Hải Nam) ở phường Ninh Hiệp
Quỳnh Phủ Hội Quán gồm các công trình kiến trúc: Tam quan, sân, Thiên Hậu Cung, Nghĩa Từ, Quan Thánh Miếu.
Hàng 90 ⟶ 96:
Hàng năm, vào ngày cúng [[Thiên Hậu Thánh mẫu|Thánh Hậu Thiên Mẫu]], [[Quan Vũ|Quan Thánh Đế quân]], người Hoa kiều gốc Hải Nam lại tổ chức lễ cúng tế rất long trọng.
Ghi nhận những giá trị lịch sử, văn hóa tiêu biểu của Quỳnh Phủ Hội quán, năm 2009 [[Ủy ban nhân dân|Uỷ ban nhân dân]] [[Khánh Hòa|tỉnh Khánh Hòa]] xếp hạng di tích cấp tỉnh.<ref>{{Chú thích web|url=https://
==== Tuệ Thành Hội quán ====
Tuệ Thành Hội quán tọa lạc tại số 338 đường Trần Quý Cáp,
[[Tập tin:Tuệ Thành Hội quán, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hoà.jpg|thế=Tuệ Thành Hội quán, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hoà|nhỏ|457x457px|Tuệ Thành Hội quán, phường Ninh Hiệp
Miếu được khởi dựng khoảng đầu [[Thế kỷ 19|thế kỷ XIX]], để thờ [[Thiên Hậu Thánh mẫu|Bà Thiên Hậu]] Thánh Mẫu và [[Thiên Lý Nhãn]], [[Thuận Phong Nhĩ]]
Theo các tư liệu lịch sử cho thấy, vào khoảng những năm đầu [[Thế kỷ 19|thế kỷ XIX]], phía đông
Từ khi xây dựng đến nay, Miếu đã được trùng tu, tôn tạo nhiều lần vào các năm [[1874]], năm [[1890]], năm [[1935]], năm [[1956]], năm [[1967]], năm [[1989]] và đặc biệt đại trùng tu năm [[2004]].
Bà [[Thiên Hậu Thánh mẫu|Thiên Hậu Thánh Mẫu]] có nguồn gốc từ [[Trung Quốc (khu vực)|Trung Hoa]], được bà con người Hoa mang theo tín ngưỡng văn hóa thờ Mẹ của cư dân vùng duyên hải Đông nam Trung Quốc khi đến định cư ở [[Việt Nam]].
Lễ đường là phần được giữ nguyên cấu hiện kiến trúc gỗ của ngôi chùa cũ. Lễ đường có tổng diện tích 59,8m², thiết kế ba gian. Mái được lợp bằng ngói Lưu ly xanh ngọc, trên bờ nóc chính giữa trang trí đắp nổi Lưỡng long tranh châu, bờ dải trang trí đắp nổi linh vật Rồng, Lân. Nền được lát gạch. Lễ đường có một cửa lớn, cánh được làm bằng gỗ, phía trên cửa có đặt tấm hoành phi: Tuệ Thành Hội Quán. Kết cấu kiến trúc được thiết kế theo lối kiến trúc cổ truyền của [[Người Trung Quốc|người Hoa]], hệ thống tường bao quanh với chất liệu cơ bản là gạch, vữa, cùng với hệ thống chịu lực chủ yếu bằng cột, vì kèo, kết hợp với hệ thống hoành, kẻ, mè nâng đỡ mái.
Hàng 109 ⟶ 115:
Hội trường dùng làm nơi hội họp của cộng đồng người Hoa mỗi khi có hoạt động trong hội. Hội trường có diện tích 144,4m².
Trên lầu là khu thờ tự chính của Miếu, được chia làm hai phần: trước là sảnh Chính điện, sau là Chính điện. Sảnh Chính điện có 3 gian, diện tích 52,9m², là nơi nhân dân chuẩn bị lễ vật để cúng Mẫu.
Nội thất sảnh Chính điện được sắp xếp: Trên cửa chính vào Chính điện gắn ba bức phù điêu bằng gốm tinh xảo, được chế tác từ Trung Hoa và đưa sang vào dịp trùng tu chùa lần thứ nhất [[1897|năm 1897]].
Hàng 122 ⟶ 128:
==== Lăng Bà Vú (Lăng Nhũ Mẫu) ====
{{Bài chi tiết|Lăng Bà Vú}}
Đây là một công trình lăng tẩm được xây dựng vào đầu [[thế kỷ 19]] khá quen thuộc ở các tỉnh Nam Trung Bộ gắn liền với [[Gia Long|vua Gia Long]] trong ngày đầu khởi nghiệp.
Tương truyền lúc giao tranh với [[nghĩa quân Tây Sơn]], [[Gia Long|Nguyễn Ánh]] thất bại nên kéo quân bỏ chạy, khi đến làng Ninh Hiệp thì lương thực cạn kiệt, tình thế vô cùng nguy khốn. Trong lúc ấy nghĩa quân được một bà già có dáng người phúc hậu mà người dân gọi là bà Trương Thị Liên đã giúp đỡ và lo lắng thuốc men. Nhờ sự chăm sóc tử tế của bà lão, [[Gia Long|Nguyễn Ánh]] lành bệnh, tướng sĩ hồi phục và được chỉ đường để trốn thoát vào miền Nam. Sau này khi lên làm vua, nhớ ơn người đã cưu mang giúp đỡ mình, vua cho người về làng để tìm thì hay tin bà đã mất. Nhằm tỏ lòng biết ơn người đã cho xây dựng [[Lăng Bà Vú]] vào cuối [[1802|năm 1802]] và hoàn tất vào [[Năm 1814|năm 1804]].<ref>{{Chú thích web|url=https://ditichkhanhhoa.org.vn/index.php/2018/03/02/lang-ba-vu/|tựa đề=
==== Đình Mỹ Hiệp ====
Đình Mỹ Hiệp tọa lạc tại
Đình Mỹ Hiệp thờ các vị thần: [[Thành hoàng|Bản cảnh Thành hoàng]], Đại càn quốc gia Nam Hải - Tứ vị thánh nương, Tiền hiền – Hậu hiền, Tiên sư Thổ Công, Tiền bối – Hậu bối, Thiên Y A Na, Chúa Tiên Thần hậu Thánh mẫu nương nương, Nương nương Hồng nữ Tiên phi Châu báu nhị vị Thái tử chúa Thần nữ Man Nương, Phu nhân Cố Hỷ, Hoàng Thiên Hậu Thổ, Âm hồn, Ngũ hành, Sơn Lâm chúa tướng, Liệt sĩ.
Từ khi khởi dựng đến nay, Đình Mỹ Hiệp đã trải qua những năm tu bổ: 1873, 1931, 1953, 1966, 1991, 2009
Đình Mỹ Hiệp tọa lạc trong khuôn viên khép kín có tổng diện tích 1.162m², mặt tiền của di tích quay về hướng Đông Bắc. Từ ngoài vào trong, đình Mỹ Hiệp có bố cục mặt bằng tổng thể như sau: Nghi môn, Án phong, cột cờ, 05 gian thờ (chính giữa là Tiền tế - Chính điện; bên trái là miếu Hội Đồng và liền kề với miếu Hội đồng là miếu Chúa Tướng; bên phải là nhà Tiền hiền và liền kề với nhà thờ Tiền hiền là miếu Âm hồn); nhà bếp và khuôn viên đình Mỹ Hiệp cũ.<ref>{{Chú thích web|url=https://ditichkhanhhoa.org.vn/index.php/2018/05/05/dinh-my-hiep/|tựa đề=
Điểm nhấn trong trang trí, điêu khắc trên kiến trúc Đình Mỹ Hiệp là hệ thống cột gỗ và bộ vì nóc được kết cấu theo kiểu “giá chiêng” hay hệ thống linh vật: [[Rồng|Long]], [[Kỳ lân|Lân]], [[Quy]], [[Phượng hoàng|Phụng]], [[Hổ]], [[Bộ Dơi|Dơi]]…được các nghệ nhân khai thác triệt để. Hình ảnh ''tứ linh'' thể hiện dưới dạng “Lưỡng long tranh châu”, hay hình ảnh “[[Bát Tiên|Bát tiên]]”, “[[Tứ quý danh hoa|Tứ quý]] ([[Cao Tùng thị|Tùng]], [[trúc]], [[Cúc vàng|cúc]], [[Mai vàng|mai]])". Ngoài ra, theo lời truyền khẩu thì chữ '''''THẦN''''' tại Chính điện là do cụ Nguyễn Khanh viết tặng cho đình vào năm 1873.
Trong cuộc kháng chiến chống [[Đế quốc thực dân Pháp|thực dân Pháp]] và [[Chủ nghĩa đế quốc Mỹ|đế quốc Mỹ]], Đình Mỹ Hiệp là địa điểm diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương:
Hàng 153 ⟶ 158:
* Trong kháng chiến chống [[Chủ nghĩa đế quốc Mỹ|đế quốc Mỹ]] ([[1954|năm 1954]] đến [[1975|năm 1975]]), Đình Mỹ Hiệp tiếp tục là nơi nuôi giấu [[Việt Minh|cán bộ cách mạng]] ở Ninh Hòa. Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968, một số cán bộ của tỉnh và các đơn vị bộ đội được phân công về Ninh Hòa và chọn Đình Mỹ Hiệp làm nơi lưu trú và họp bàn kế hoạch. Khi cuộc nổi dậy nổ ra ở quận lỵ Ninh Hòa trong [[Sự kiện Tết Mậu Thân|Tết Mậu Thân]], Đình Mỹ Hiệp là nơi tập trung lực lượng và là nơi cứu chữa tạm thời thương binh trước khi đưa về hậu cứ điều trị.
Hàng năm, nhân dân phường Ninh Hiệp tổ chức lễ hội Đình Mỹ Hiệp vào tháng 02 Âm lịch. Lễ hội Đình Mỹ Hiệp là một ngày hội lớn của nhân dân phường Ninh Hiệp, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tới tham dự
Ngày 23 tháng 3 năm 2009,
==== Phủ đường Ninh
[[Tập tin:Phủ đường Ninh Hòa.jpg|thế=Bia khắc tại di tích Phủ đường Ninh Hòa|nhỏ|275x275px|Bia khắc tại di tích Phủ đường Ninh Hòa]]
Theo [[Đại Nam nhất thống chí|Đại Nam Nhất Thống Chí]], từ thời [[Gia Long|vua Gia Long]] đến [[Minh Mạng|vua Minh Mạng]] năm thứ 1 (năm [[1820]]), Phủ đường Ninh Hòa là trụ sở hành chính cấp huyện; đến thời [[Minh Mạng|vua Minh Mạng]] năm thứ 12 (năm [[1831]]) lỵ sở này được xây dựng lại với quy mô khang trang, tương xứng là trụ sở hành chính cấp huyện (sau đó là Phủ). Hiên nay, Phủ đường Ninh Hòa toạ lạc trong khuôn viên Uỷ ban nhân dân thị xã Ninh
Phủ đường Ninh Hòa là công trình kiến trúc có dạng hình chữ nhật với bốn cạnh là tường hồi bít đốc, mặt tiền quay về [[hướng Đông Nam]]. Về tổng thể, di tích được kết cấu theo mô-típ nhà truyền thống của vùng đồng bằng Khánh Hòa theo kiểu 3 gian 2 chái. Riêng phần tường phía trước hiên và phần mái trang trí theo mô típ cấu trúc thành cổ ở cố đô Huế – kiến trúc truyền thống của [[Nhà Nguyễn|thời Nguyễn]]. Chính điều này tạo cho di tích vừa có nét cổ kính, vừa có sự trang nghiêm mang tính chất một công đường; kết cấu kiến trúc hài hòa, giá trị nghệ thuật cao.
Hàng 165 ⟶ 170:
Tòa nhà chính là [[Phòng xử án|công đường]], bậc cấp và thềm được xây bằng gạch láng [[xi măng]] (kích thước 3,3m x 4,6m). Đây là nơi được dùng để thông báo các lệnh chỉ, chỉ dụ của vua quan triều đình cho đội ngũ nha lại ở Phủ.
Qua khỏi thềm là hành lang chạy dài suốt chiều ngang mặt trước ngôi nhà (kích thước 2,3m x 16,8m). [[Phòng xử án|Công đường]] có diện tích 148,2m². Kết cấu chịu lực chính của ngôi nhà và đỡ hệ mái bên trên là 26 cột gỗ tròn. Gian giữa là nơi làm việc của [[Tri phủ]], có kích thước 4,6m x 9,5m và hai gian hai bên là nơi làm việc của Nha lại, có kích thước 5,5m x 9,5m; mỗi phòng bên liên kết gồm 01 gian và 01 chái nhỏ. Hai đầu hồi của 2 phòng làm việc có 2 đường bậc cấp lên xuống ở hai đầu, trên có ngưỡng cửa hình vòm.
* '''''Hệ mái''''': Phủ đường có kết cấu 4 mái gồm 2 mái trước sau và 2 mái hồi, lợp ngói âm dương. Phần trên của diềm mái trang trí những ô trống hình lục lăng, hình tròn, hình quả trám. Đây chính là điểm nhấn trong kiến trúc dân gian cổ của vùng đồng bằng [[Khánh Hòa]] hồi cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
* '''''Hệ thống tường bao''''' có 5 cửa vòm xây gạch thẻ, uốn cong phần ngưỡng cửa phía trên theo kiến trúc phương Tây, song song đối xứng nhau.
Trước kia, phía sau gian bên tả (bên trái) còn có nhà Đội lệ ([[Người lính|quân lính]]) và phòng giam, nhưng trải qua các biến cố của lịch sử, nay đã không còn. Về cơ bản, ngôi nhà vẫn được giữ gìn kết cấu như cũ và với lần tu bổ gần đây nhất ([[2005|năm 2005]]) đã đưa di tích trở về đúng chức năng vốn có của một công đường. Nhằm mục đích tuyên truyền, giáo dục truyền thống lịch sử cho thế hệ trẻ.
Năm 2010, tỉnh Khánh Hòa đã tiến hành sưu tầm, phục chế và phục dựng lại các hiện vật, hình ảnh trưng bày tại Phủ đường Ninh Hòa như sau:
*Gian giữa: trưng bày một bộ bàn ghế và tượng mô phỏng cảnh [[Tri phủ|quan Tri phủ]] đang ngồi làm việc, một hòm sách ở bên phải và một ống gỗ đựng roi da bò, roi cá đuối ở bên trái. Trên bàn là ống đựng bút, nghiên mực, ấn triện, hộp đựng thẻ lệnh. Tại vị trí ngồi làm việc của viên tri huyện còn có cặp tàn, lọng che trông rất uy nghiêm. Phía sau tri huyện đặt bộ chấp kích (gồm 10 loại binh khí cổ) và một lính hầu ngồi kéo quạt. Ngoài ra, hai bên vách tường có treo 02 bức tranh sơn dầu mô tả quang cảnh sự kiện 16 tháng 7 năm 1930 ở núi Ổ Gà và Phủ đường Ninh Hòa.
*
*
Cả 3 gian phòng còn trưng bày 20 bức ảnh (khổ từ 70cm x 90cm đến 1,6 m) về các di tích, danh lam thắng cảnh, làng nghề truyền thống tiêu biểu ở Ninh Hòa.[[Tập tin:Phủ đường Ninh Hòa, chính diện.jpg|thế=Di tích Phủ đường Ninh Hòa tọa lạc trong khuôn viên Ủy ban nhân dân thị xã Ninh Hòa. (Người chụp: Lương Tấn Phú)|giữa|nhỏ|700x700px|Di tích '''''Phủ đường Ninh Hòa''''' tọa lạc trong khuôn viên Ủy ban nhân dân thị xã Ninh Hòa. ''(Người chụp: Lương Tấn Phú)'']]
Phủ đường Ninh Hòa là một di tích của lịch sử giá trị của địa phương được xếp vào danh mục được tu bổ trong năm 2022.<ref>{{Chú thích web|url=https://baokhanhhoa.vn/van-hoa/202111/tu-bo-di-tich-phu-duong-ninh-hoa-8233854/|tựa đề=Tu bổ di tích Phủ đường Ninh Hòa|website=Báo Khánh Hòa|ngày truy cập=2022-02-25}}</ref>
==== Tượng đài 16 tháng 7 ====
Nhằm kỷ niệm sự kiện 16 tháng 7 năm 1930, thị xã Ninh Hòa khởi công xây dựng Tượng đài 16 tháng 7 tại thôn 8 (nay là tổ dân phố 17), phường Ninh Hiệp.
Tượng đài 16 tháng 7 được xây dựng trên diện tích 1 héc-ta với 2 phần:
Hàng 194 ⟶ 197:
* Công viên quanh tượng đài được thực hiện theo dự án bổ sung của Công ty Tư vấn kiến trúc và Xây dựng Khánh Hòa.
Công trình được xây dựng với tổng kinh phí hơn 6,3 tỷ đồng, trong đó nguồn ngân sách tỉnh Khánh Hoà chiếm 3 tỷ và nguồn ngân sách huyện Ninh
Hàng năm, tượng đài 16 tháng 7 cũng là địa điểm được các trường học tổ chức những hoạt động trải nghiệm và tham quan.<ref>{{Chú thích web|url=https://tinhdoankhanhhoa.org.vn/17517/|tựa đề=Hoạt động trải nghiệm “Tham quan tượng đài 16/7 và Khu Di tích lịch sử cấp Quốc gia Tàu không số C235”|ngày=2019-04-05|website=Trang thông tin Tỉnh đoàn Khánh Hòa|url-status=live}}</ref>
==Chú thích==
|