Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Red Velvet (nhóm nhạc)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n lỗi mã đánh dấu
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 29:
 
=== Trước khi ra mắt ===
[[Seulgi (ca sĩ)|Seulgi]] là thành viên đầu tiên trở thành thực tập sinh của [[S.M. Entertainment|SM Entertainment]] thông qua một cuộc tuyển chọn vào năm 2007. [[Irene (ca sĩ)|Irene]] và [[Yeri (ca sĩ)|Yeri]] được tuyển chọn lần lượt vào năm 2009 và 2010. Năm 2012, [[Wendy (ca sĩ)|Wendy]] và [[Joy (ca sĩ)|Joy]] trở thành thực tập sinh thông qua hệ thống tuyển chọn S.M. Global Auditions được tổ chức lần lượt tại [[Canada]] và [[Hàn Quốc]].<ref name="starn12">{{chú thích báo|url=http://starn.hankyung.com/global/en/news/index.html?no=317678|title=SM Entertainment to debut a new girl group, 'Red Velvet'|work=StarN News|author1=Kim Dong-Joo|access-date=ngày 10 tháng 3 năm 2015|archive-date=2015-04-02|archive-url=https://web.archive.org/web/20150402133356/http://starn.hankyung.com/global/en/news/index.html?no=317678|url-status=dead}}</ref> [[Irene (ca sĩ)|Irene]], [[Seulgi]] và [[Wendy (ca sĩ)|Wendy]] ban đầu được công ty giới thiệu tới công chúng với tư cách là thành viên nhóm thực tập sinh [[SM Rookies]] vào năm 2013 và 2014, họ được rumor rằng sẽ ra mắt trong một nhóm nhạc vào tháng 7, sau đó được xác nhận bởi [[S.M. Entertainment]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.koreaherald.com/view.php?ud=20140728000659|tiêu đề=SM Entertainment debuts new girl group Red Velvet|ngày=ngày 28 tháng 7 năm 2014|nhà xuất bản=[[The Korea Herald]]|author=Sohn Ji-young|ngày truy cập=ngày 1 tháng 8 năm 2014}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.sportsseoul.com/?c=v&m=n&i=88648|tiêu đề=SM 6년만에 4인조 걸그룹 출격, "8월 데뷔 목표"|ngày=ngày 22 tháng 7 năm 2014|website=Sports Seoul|ngôn ngữ=Koreanko|ngày truy cập=ngày 12 tháng 3 năm 2015|author=Lee Ji-suk}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://mwave.interest.me/enewsworld/en/article/71320/sm-to-launch-a-new-girl-group-next-month|tiêu đề=SM to Debut New Four Member Girl Group in August|last=Kim|first=Hyung-woo|ngày=ngày 22 tháng 7 năm 2014|website=Newsen|ngày truy cập=ngày 12 tháng 3 năm 2015|archive-date = ngày 23 tháng 1 năm 2015 |archive-url=https://web.archive.org/web/20150123033625/http://mwave.interest.me/enewsworld/en/article/71320/sm-to-launch-a-new-girl-group-next-month}}</ref> Với việc bổ sung thành viên [[Joy (ca sĩ)|Joy]], nhóm có bốn thành viên và tên nhóm chính thức là Red Velvet, họ là [[nhóm nhạc nữ]] đầu tiên sau 5 năm của [[S.M. Entertainment]] kể từ khi [[F(x) (nhóm nhạc)|f(x)]] ra mắt.<ref>{{Chú thích web|url=http://koreajoongangdaily.joins.com/news/article/article.aspx?aid=2992652|tiêu đề=SM brings a touch of velvet to K-pop|ngày=ngày 29 tháng 7 năm 2014|website=[[Korea JoongAng Daily]]|ngày truy cập=ngày 12 tháng 12 năm 2014}}</ref>
 
===2014: Ra mắt với ''Happiness'' và ''Be Natural''===
Dòng 36:
Ngày 1 tháng 8, nhóm biểu diễn lần đầu tiên trên truyền hình trong chương trình âm nhạc ''[[Music Bank (chương trình truyền hình)|Music Bank]]''.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.koreaherald.com/view.php?ud=20140730000536|tiêu đề=SM’s Red Velvet to stage debut Aug. 1|ngày=ngày 30 tháng 7 năm 2014|nhà xuất bản=[[The Korea Herald]]|author=Ock Hyun-ju|ngày truy cập=ngày 1 tháng 8 năm 2014}}</ref> Đĩa đơn đầu tay của nhóm, "Happiness", được phát hành trực tuyến vào ngày 4 tháng 8.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.koreaherald.com/view.php?ud=20140807000985|tiêu đề=Red Velvet debuts high on music charts|ngày=ngày 7 tháng 8 năm 2014|nhà xuất bản=[[The Korea Herald]]|ngày truy cập=ngày 8 tháng 8 năm 2014}}</ref> Được Will Simms, Chad Hugo, Chris Holsten, Anne Judith Wik sáng tác và [[Yoo Young-jin]] phổ lời, "Happiness" là một bài hát [[Europop]] với giai điệu và tiết tấu mạnh mẽ.<ref name="arirangtv2">{{Cite episode|title=Red Velvet - Happiness|url=https://www.youtube.com/watch?v=60ZGMYwCalA|access-date =ngày 17 tháng 11 năm 2014|series=Simply K-Pop|serieslink=Simply K-Pop|network=[[Arirang TV]]|number=125|date=ngày 22 tháng 8 năm 2014}}</ref> Video âm nhạc của bài hát đạt trên 2 triệu lượt xem trên [[YouTube]] trong vòng 24 giờ từ khi được đăng tải, nhưng sau đó bị gỡ bỏ do sử dụng một số hình ảnh gây tranh cãi liên quan đến [[vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki]], và được thay thế bằng một phiên bản đã chỉnh sửa. "Happiness" đã trở thành video âm nhạc K-pop được xem nhiều thứ hai trên [[YouTube]] trong tháng 8 năm 2014.<ref name="billboardmv2">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/columns/k-town/6244070/most-viewed-k-pop-videos-mvs-america-global-august-2014|tiêu đề=Most Viewed K-Pop Videos in America & Around the World: August 2014|ngày=ngày 8 tháng 9 năm 2014|website=[[Billboard K-Town]]|nhà xuất bản=Billboard|last1=Benjamin|first1=Jeff|ngày truy cập=ngày 18 tháng 11 năm 2014}}</ref>
 
Ngày 13 tháng 10 năm 2014, Red Velvet phát hành đĩa đơn nhạc số thứ hai, "Be Natural", cũng như video âm nhạc chính thức của bài hát.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.kpopherald.com/view.php?ud=201410100658206704338_2|title=Red Velvet releases ‘Be Natural’ video|date=ngày 10 tháng 10 năm 2014|work=K-Pop Herald|author1=Park Gyu-oh|access-date =ngày 27 tháng 12 năm 2014}}</ref> Với sự góp mặt của [[Taeyong]], hiện là thành viên nhóm nhạc nam [[NCT (nhóm nhạc)|NCT]], "Be Natural" là một phiên bản thu lại của bài hát đã được [[S.E.S. (nhóm nhạc)|S.E.S.]], nhóm nhạc nữ đầu tiên của [[S.M. Entertainment]], phát hành vào năm 2000.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.koreaherald.com/view.php?ud=20141007000765|title=Red Velvet to make comeback with remake track|date=ngày 8 tháng 10 năm 2014|work=The Korea Herald|author1=Ock Hyun-ju|access-date =ngày 27 tháng 12 năm 2014}}</ref> MV này được quay bởi Kwon Soon-wook và Shim Jae-won, biên đạo bởi Kyle Hanagami.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Music video of Red Velvet's 'Be Natural' unveiled|author=Kim Dong-Joo|work=Star N News|ngày=ngày 9 tháng 10 năm 2014|ngày truy cập=ngày 8 tháng 6 năm 2016|url=https://sg.celebrity.yahoo.com/news/music-video-of-red-velvets-be-natural-unveiled-064316055.html}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.newsen.com/news_view.php?uid=201410100905500510|tiêu đề=레드벨벳 'Be Natural' 의자 퍼포먼스, 비욘세 안무가 작품|ngày=ngày 10 tháng 10 năm 2014|website=Newsen|ngôn ngữ=Koreanko|ngày truy cập=ngày 23 tháng 10 năm 2014|author=Ha Su-jeong}}</ref> Nhóm bắt đầu quảng bá vào ngày 9 tháng 10, lần đầu tiên xuất hiện trên chương trình âm nhạc ''[[M Countdown]]''.<ref>{{chú thích báo|url=http://mwave.interest.me/enewsworld/en/article/77699/red-velvet-to-perform-be-natural-on-mcd|title=Red Velvet to Launch Promotions for 'Be Natural' on 'MCD'|date=ngày 8 tháng 10 năm 2014|work=CJ E&M enewsWorld|author1=Jeon Su Mi|author2=Yeawon Jung|access-date=ngày 27 tháng 12 năm 2014|archive-date=2014-10-15|archive-url=https://web.archive.org/web/20141015152450/http://mwave.interest.me/enewsworld/en/article/77699/red-velvet-to-perform-be-natural-on-mcd|url-status=dead}}</ref> Bài hát đạt vị trí thứ 33 trên [[Gaon Digital Chart]] và vị trí thứ 6 trên bảng xếp hạng [[World Digital Songs]] của ''[[Billboard]].<ref name="gaonchart.co.kr">{{Chú thích web|url=http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/online.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=ALL&targetTime=33&hitYear=2014&termGbn=week|tiêu đề=Weekly Gaon Digital Chart - August 3–9, 2014|ngày truy cập=ngày 6 tháng 12 năm 2017}}</ref><ref name="gaonchart.co.kr" />''
 
=== 2015: Thành viên mới Yeri, ''Ice Cream Cake'' và ''The Red'' ===
Dòng 46:
 
===2016: ''The Velvet'' và ''Russian Roulette,'' xuất hiện trong phim Hậu duệ mặt trời===
[[Tập tin:160519 한밭대학교 축제 - 레드벨벳 5.jpg|trái|nhỏ|Red Velvet biểu diễn vào ngày 18 tháng 5 năm 2016.]]Mini-album thứ hai của Red Velvet, ''[[The Velvet]]'', được lên kế hoạch phát hành vào ngày 16 tháng 3 năm 2016. Tuy nhiên, 10 phút trước thời điểm như đã công bố, [[S.M. Entertainment|SM Entertainment]] thông báo hoãn việc phát hành lại "nhằm đảm bảo chất lượng tốt hơn".<ref>{{Chú thích web|url=http://kpopherald.koreaherald.com/view.php?ud=201603161149310640622_2|first=Ji-young|last=Kim |ngày truy cập=ngày 18 tháng 3 năm 2016 |website=The Korea Herald |ngày=ngày 16 tháng 3 năm 2016|tiêu đề=Red Velvet postpones album release}}</ref> Do đó, album và đĩa đơn "One of These Nights" (tên [[tiếng Hàn]]: 7월 7일; [[Romaja quốc ngữ]]: 7wol 7il) được phát hành vào ngày 17 tháng 3.<ref>{{Chú thích web|url=http://entertain.naver.com/read?oid=109&aid=0003270639|first=Mi-kyung|last=Seon |ngày truy cập=ngày 10 tháng 3 năm 2016 |website=Osen |ngày=ngày 2 tháng 3 năm 2016|tiêu đề=SM "레드벨벳, 최근 신곡 MV 촬영..3월 컴백 목표"|ngôn ngữ=ko}}</ref> Với phong cách âm nhạc [[Rhythm and blues|R&B]], ''The Velvet'' thể hiện khía cạnh "velvet" nhẹ nhàng, nữ tính trong hình tượng của nhóm, tương phản với khía cạnh "red" sôi động, táo bạo ở ''The Red''.<ref name="FuseTV">{{Chú thích web|url=http://www.fuse.tv/2016/03/red-velvet-one-of-these-nights-mv|first=Jeff|last=Benjamin |ngày truy cập=ngày 18 tháng 3 năm 2016 |website=Fuse |ngày=ngày 16 tháng 3 năm 2016|tiêu đề=Red Velvet Returns With Dreamy R&B Ballad 'One of These Nights'}}</ref> "One of These Nights" đã giành chiến thắng năm lần trên các chương trình âm nhạc Hàn Quốc. Vào tháng 5, nhiều tờ báo tại [[Hàn Quốc]] đưa tin rằng nhóm đang chuẩn bị phát hành album mùa hè. Mặc dù đã bị hoãn nhiều lần nhưng cuối cùng nhóm đã phát hành mini album thứ ba của họ ''[[Russian Roulette (EP của Red Velvet)|Russian Roulette]]'' vào ngày 7 tháng 9.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.newsen.com/news_view.php?uid=201605261725330410|ngày truy cập=ngày 6 tháng 12 năm 2017|last1=Hwang|first1=Hye-jin|website=Newsen|ngày=ngày 26 tháng 5 năm 2016|tiêu đề=SM 측 "레드벨벳 컴백 준비중, 일정 확정되면 발표"|ngôn ngữ=Koreanko}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://entertain.naver.com/read?oid=076&aid=0002976550|ngày truy cập=ngày 6 tháng 12 năm 2017|last1=Park|first1=Young-woong|website=Naver|nhà xuất bản=Sports Chosun|ngày=ngày 19 tháng 8 năm 2016|tiêu đề=[단독] SM, 엑소 다음은 레드벨벳! 9월 새 앨범 컴백|ngôn ngữ=Koreanko}}</ref> Album bao gồm bảy bài hát với cả khúc chủ đề "[[Russian Roulette (bài hát)|Russian Roulette]]".<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Red Velvet to Make Comeback on September 7|last=Ahn|first=Woorim|website=bnt news|url=http://www.bntnews.co.uk/app/news.php?nid=31892|ngày truy cập=ngày 2 tháng 9 năm 2016|ngày=ngày 1 tháng 9 năm 2016}}</ref> Vào ngày 13 tháng 9 năm 2016, Red Velvet đã giành chiến thắng đầu tiên trên chương trình âm nhạc cho [[Russian Roulette (bài hát)|Russian Roulette]] trên ''[[The Show (chương trình truyền hình Hàn Quốc)|The Show]]''.<ref>{{chú thích báo|url=http://news1.kr/articles/?2775264|title=레드벨벳, '더 쇼'서 컴백 첫 1위 "팬들께 감사"|date=ngày 13 tháng 9 năm 2016|access-date =ngày 21 tháng 2 năm 2017|language=ko|publisher=news1.kr}}</ref> Bài hát chủ đề đạt vị trí thứ hai trên [[Gaon Digital Chart]] và bảng xếp hạng [[World Digital Songs]] của ''[[Billboard]],'' vị trí cao nhất của nhóm trên cả hai bảng xếp hạng vào thời điểm đó.<ref name="ALL 2016">[http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/online.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=ALL&targetTime=38&hitYear=2016&termGbn=week South Korea's Weekly Gaon Digital Chart September 11-17, 2016 (in Korean)] Originally from [[Gaon Music Chart]] (September 2016). Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2017.</ref> Bài hát chủ đề đã giành được 6 cúp âm nhạc trong các tần quảng bá. MV ca nhạc của bài hát "[[Russian Roulette (bài hát)|Russian Roulette]]" đạt được 100 triệu lượt xem trên [[YouTube]], đây là MV đầu tiên của nhóm đạt được thành tích này. Bài hát chủ đề lần này cũng xuất sắc được đề cử tại [[Korean Music Awards]] cho hạng mục Best Pop Song.
 
Nhóm cũng xuất hiện trong tập cuối của bộ phim đình đám ''[[Hậu duệ mặt trời]]'', khi đó biệt đội Alpha do đại úy Yoo Shi Jin ([[Song Joong-ki]] đóng) chỉ huy có nhiệm vụ tiếp đón các khách VIP cho đại tiệc liên hoan của quân đội. Những vị khách đặc biệt chính là 5 cô gái xinh đẹp từ nhóm nhạc Red Velvet. 5 cô gái nhà SM đã có màn xuất hiện đặc biệt, họ ghé thăm một trại huấn luyện quân đội và biểu diễn phục vụ các quân nhân. Vẻ trẻ trung, xinh đẹp của nhóm khiến các quân nhân có mặt tại khán phòng gần như phát cuồng và hò hét điên loạn. Thậm chí mọi người còn nhún nhẩy theo giai điệu ca khúc ''Dumb Dumb'' mà nhóm biểu diễn<ref>{{Chú thích web|url=https://saostar.vn/am-nhac/sm-bi-chi-trich-vi-cho-red-velvet-chiem-song-trong-tap-cuoi-hau-due-mat-troi-427487.html|tựa đề=SM bị chỉ trích vì cho Red Velvet 'chiếm sóng' trong tập cuối ‘Hậu duệ mặt trời’|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=https://vov.vn/van-hoa/dien-anh/hau-due-mat-troi-khien-nhom-red-velvet-bat-ngo-tro-thanh-hien-tuong-500932.vov|tựa đề=“Hậu duệ mặt trời” khiến nhóm Red Velvet bất ngờ trở thành hiện tượng|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref> .
Dòng 54:
 
Ngày 26 tháng 4 năm 2017, Red Velvet công bố tên fandom chính thức là ReVeluv. Tên fandom của nhóm không chỉ là kết hợp giữa hai từ "Red Velvet" và "Love" mà còn đọc giống "Level Up" khi phát âm [[tiếng Hàn]]. Đồng thời cũng là cách viết tắt của Red Velvet luv - tượng trưng cho tình yêu giữa fan và Red Velvet. "Rêve" trong [[tiếng Pháp]] cũng có nghĩa là giấc mơ, ước mơ.[[Tập tin:170116 레드벨벳 아육대.jpg|nhỏ|Red Velvet tại đại hội thể thao [[Idol Star Athletics Championships|ISAC]] vào tháng 1 năm 2017]]
Ngày 9 tháng 7 năm 2017, Red Velvet phát hành mini-album thứ năm ''[[The Red Summer (EP)|The Red Summer]]'' gồm 5 bài hát với ca khúc chủ đề "[[Red Flavor (bài hát của Red Velvet)|Red Flavor]]"(tiếng Hàn: 빨간 맛; Romaja quốc ngữ: ''ppalgan mas'').<ref>{{Chú thích web|url=http://www.allkpop.com/article/2017/06/red-velvets-irene-introduces-the-tracklist-for-their-summer-special-album-the-red-summer|tiêu đề=Red Velvet's Irene introduces the tracklist for their summer special album 'The Red Summer'!}}</ref>, đánh dấu sản phẩm phát hành vào mùa hè đầu tiên của nhóm.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=레드벨벳, 7월 컴백 예정..SM "뮤비 촬영 마쳤다"(공식)|last=Kim|first=Hwi-seok|website=naver|url=http://entertain.naver.com/music/now/read?oid=108&aid=0002624461|ngày truy cập=ngày 30 tháng 6 năm 2017|ngày=ngày 23 tháng 6 năm 2017|ngôn ngữ=koreanko}}</ref> Mini-album tiếp tục đứng đầu cả hai bảng xếp hạng [[Gaon Album Chart]] của [[Hàn Quốc]] và [[World Albums Chart]] của ''[[Billboard]]''. "Red Flavor" cũng đạt vị trí thứ nhất trên cả hai bảng xếp hạng [[Gaon Digital Chart]] và [[Gaon Download Chart]].<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=레드벨벳 '빨간 맛', 가온차트 3관왕 '인기 이어간다' |last=Park| first=Geon-wook |website=Naver|url=http://entertain.naver.com/now/read?oid=469&aid=0000219404 |ngày truy cập=ngày 20 tháng 7 năm 2017 |ngày=ngày 20 tháng 7 năm 2017 |ngôn ngữ=koreanko}}</ref> Ngoài ra, "Red Flavor" lần đầu xuất hiện trên Gaon Digital Chart và Gaon Download Chart với 4 bài hát khác cũng nằm trong Top 50 of the Digital Chart.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=레드벨벳 '빨간 맛', 가온차트 3관왕 '인기 이어간다'|last=Park|first=Geon-wook|website=Naver|url=http://entertain.naver.com/now/read?oid=469&aid=0000219404|ngày truy cập=ngày 20 tháng 7 năm 2017|ngày=ngày 20 tháng 7 năm 2017|ngôn ngữ=koreanko}}</ref> Bài hát được [[Billboard]] bình chọn là bài hát Kpop hay nhất năm 2017 và xuất sắc thứ hai của thập kỉ.
 
Tháng 8 năm 2017, nhóm phát hành một bài hát nữa cho dự án Station với tựa đề "Rebirth".
Dòng 63:
</ref>
 
Vào ngày 4 tháng 10, [[SM Entertainment]] thông báo qua [[trang web]] [[tiếng Nhật]] rằng nhóm sẽ có showcase đầu tiên tại [[Nhật Bản]].<ref>{{Chú thích web|url=https://smtown-official.jp/news/n171004/|tiêu đề=Red Velvet Premium Showcase "ReVeluv-Baby Party"|ngôn ngữ=Japaneseja|access-date =ngày 18 tháng 12 năm 2017}}</ref> "Red Velvet Premium Showcase F'U'N Room Reveluv-Baby Party" diễn ra tại Yebisu The Garden Hall ở [[Tokyo]] vào ngày 6 tháng 11.<ref>{{chú thích báo|url=https://www.sbs.com.au/popasia/blog/2017/11/07/going-global-red-velvet-are-making-waves-japan|title=Going global! Red Velvet are making waves in Japan|work=SBS PopAsia|last=Peterson|first=Jacques|access-date =ngày 18 tháng 12 năm 2017}}</ref> Ở đó, họ trình diễn phiên bản tiếng Nhật của "Dumb Dumb" và "Red Flavor" lần đầu tiên.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.musicman-net.com/artist/70457|tiêu đề=Red Velvet、日本初単独コンサート「Concert "Red Room" in JAPAN」開催決定|work=musicman-net|ngôn ngữ=Japaneseja|access-date=ngày 18 tháng 12 năm 2017|archive-date=2019-05-31|archive-url=https://web.archive.org/web/20190531165339/https://www.musicman-net.com/artist/70457|url-status=dead}}</ref> Sau khi kết thúc buổi showcase, họ đã thông báo chính thức rằng concert "Red Room" sẽ được tổ chức tại Nhật Bản trong năm 2018. Dự kiến sẽ diễn ra vào ngày 28 và 29 tháng 3 tại Trung tâm thể thao Musashino Forest với 10,000 chỗ ngồi và là nơi sẽ tổ chức [[Thế vận hội Mùa hè 2020|2020 Tokyo Olympics]].<ref>{{chú thích báo|url=https://natalie.mu/music/news/255749|title=Red Velvet、キャパ1万人会場で日本初単独コンサート決定|work=natalie|language=Japaneseja|access-date =ngày 18 tháng 12 năm 2017}}</ref>
 
Red Velvet thể hiện lại phong cách "velvet" của nhóm trong album phòng thu thứ hai, ''[[Perfect Velvet]]'' được phát hành vào ngày 17 tháng 11 với ca khúc chủ đề "[[Peek-A-Boo (bài hát của Red Velvet)|Peak-a-Boo]]".<ref>{{chú thích báo|url=http://www.billboard.com/articles/columns/k-town/8030062/red-velvet-perfect-velvet-album-peek-a-boo-tease|title=Red Velvet Teases 'Perfect Velvet' Album, Upcoming Single 'Peek-A-Boo'|work=Billboard|access-date = ngày 15 tháng 11 năm 2017}}</ref> Không giống như lần phát hành đầu tiên của họ "velvet", album và đĩa đơn đều thành công về mặt thương mại.<ref name="Osen12">{{Chú thích web|url=http://entertain.naver.com/read?oid=109&aid=0003671213|ngày truy cập=ngày 30 tháng 11 năm 2017|website=osen|author=Lee So-dam|nhà xuất bản=Osen|ngày=ngày 29 tháng 11 năm 2017|tiêu đề=[Oh! 뮤직] 레드벨벳은 진화 중|ngôn ngữ=koreanko}}</ref> Album đạt vị trí thứ nhất trên [[World Albums Chart|World Album Chart]] của ''[[Billboard]].'' "[[Peek-A-Boo (bài hát của Red Velvet)|Peek-a-Boo]]" đạt vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng [[Bảng xếp hạng Billboard|World Digital Songs]] của ''[[Billboard]].<ref>{{Chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/columns/k-town/8053845/red-velvet-perfect-velvet-most-no-1s-on-world-albums-chart|ngày truy cập=ngày 30 tháng 11 năm 2017|website=billboard|last=Benjamin|first=Jeff|nhà xuất bản=Billboard|ngày=ngày 27 tháng 11 năm 2017|tiêu đề=Red Velvet Tie for Most No. 1s on World Albums Chart Among All K-Pop Acts}}</ref>'' Tại Hàn Quốc, album và đĩa đơn "Peek-a-Boo" đều đạt vị trí thứ 2 trên Gaon Album Chart và Gaon Digital Chart.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Gaon Album Chart – Week 46, 2017|url=http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/album.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=&targetTime=46&hitYear=2017&termGbn=week|website=[[Gaon Music Chart|Gaon Chart]]|ngôn ngữ=ko|ngày truy cập=ngày 23 tháng 11 năm 2017}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.gaonchart.co.kr/main/section/chart/online.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=ALL&targetTime=47&hitYear=2017&termGbn=week|tiêu đề=2017 Gaon Digital Chart - Week 47|website=Gaon Music Chart|ngày=November 19-25, 2017|ngày truy cập=2017-12-14}}</ref> Bài hát chủ đề 'Peek-a-boo' là ca khúc thứ ba của nhóm đạt được 100 triệu lượt nghe trên [[Spotify]].
=== 2018: ''The Perfect Red Velvet, #Cookie Jar, Summer Magic,'' trình diễn tại Triều Tiên và ''RBB''===
 
Dòng 72:
[[Tập tin:180902 스카이페스티벌 레드벨벳.jpg | nhỏ | Red Velvet vào ngày [[2 tháng 9]] năm [[2018]]|thế=|230x230px]]
 
Album đứng đầu trên [[Gaon Album Chart]], sau khi phát hành "Bad Boy" ra mắt tại vị trí thứ nhất trên Download Chart của Gaon và vị trí thứ hai [[Gaon Digital Chart]].<ref>{{Chú thích web|url=http://news.chosun.com/site/data/html_dir/2018/02/08/2018020801013.html|first=Seong-won|last=Kim|ngày truy cập=ngày 8 tháng 2 năm 2018|website=Chosun|ngày=ngày 8 tháng 2 năm 2018|tiêu đề=레드벨벳 정규 2집 리패키지, 가온 차트 2관왕 '대세 파워'|ngôn ngữ=koreanko}}</ref> ''The Perfect Red Velvet'' cũng xếp vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng [[Bảng xếp hạng Billboard|World Albums]] của ''[[Billboard]]'' trong khi "Bad Boy" ra mắt tại vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng [[Bảng xếp hạng Billboard|World Digital Songs]]. Red Velvet quảng bá trên nhiều chương trình truyền hình âm nhạc Hàn Quốc, chiến thắng đầu tiên trên chương trình âm nhạc cho "Bad Boy" là trên ''[[Show Champion]]'' vào ngày 7 tháng 2.<ref>{{Chú thích web|url=http://news1.kr/articles/?3230162|first=Soo-min|last=Jang|ngày truy cập=ngày 8 tháng 2 năm 2018|website=News1|ngày=ngày 7 tháng 2 năm 2018|tiêu đề='쇼챔피언' 레드벨벳 'BAD BOY' 챔피언 송 등극 '컴백 후 첫 1위'|ngôn ngữ=koreanko}}</ref> Đến năm 2019, MV ca nhạc của bài hát 'Bad Boy' là MV đầu tiên của Red Velvet đạt 200 triệu lượt xem trên [[YouTube]]. Với hơn 500,000 đơn vị được tiêu thụ ở Mỹ, Bad Boy đã trở thành ca khúc đầu tiên của Red Velvet đủ tiêu chuẩn để đạt Chứng nhận Vàng của [[Hiệp hội Công nghiệp Thu âm Mỹ]] (RIAA). Đây cũng là bài hát duy nhất của Red Velvet và của các nghệ sĩ thuộc [[SM Entertainment|SMent]] đạt 100 triệu lượt nghe trên nền tảng nghe nhạc [[Spotify]], Red Velvet cũng là nhóm nhạc nữ Kpop thứ 3 sở hữu bài hát đạt được thành tích này. Đồng thời, đây cũng là bài hát đạt được nhiều lượt nghe nhất trên [[Spotify]] của các nghệ sĩ trực thuộc [[SM Entertainment]], tính đến ngày 25 tháng 2 năm 2020 là 110.742.649 lượt. "Bad boy" được Billboard bình chọn là bài hát Kpop hay nhất năm 2018.
 
Vào ngày 20 tháng 3 năm 2018, [[S.M. Entertainment|S.M Entertainment]] thông báo Red Velvet sẽ trình diễn cùng các nghệ sĩ khác của Hàn Quốc cho buổi [[concert]] Hàn Quốc tại [[Bình Nhưỡng]], [[Bắc Triều Tiên]] diễn ra từ ngày 1/4 đến 3/4. Điều này khiến nhóm trở thành nghệ sĩ đầu tiên từ SM Entertainment trong 15 năm kể từ khi [[Shinhwa]] biểu diễn tại Bắc Triều Tiên.<ref>{{chú thích báo|url=http://entertain.naver.com/now/read?oid=001&aid=0009982589|title=레드벨벳, 평양서 '빨간맛' '배드 보이' 부른다|date=ngày 26 tháng 3 năm 2018|access-date =ngày 29 tháng 3 năm 2018|language=ko|publisher=[[Naver]]}}</ref> Trong đêm nhạc đầu tiên diễn ra tại Nhà hát lớn Đông Bình Nhưỡng vào ngày 1/4, dù vắng Joy do vướng lịch trình cá nhân nhưng nhóm đã biểu diễn hai ca khúc ''Red Flavour'' và ''Bad Boy,'' nhóm cũng có cơ hội gặp gỡ và chào hỏi lãnh đạo tối cao của Triều Tiên- ngài [[Kim Jong-un|Kim Jong Un]] sau đêm diễn đầu tiên, đồng thời tham dự một buổi trả lời phỏng vấn về hoạt động giao lưu tại đây.<ref>{{Chú thích web|url=https://thethaovanhoa.vn/giai-tri/tai-sao-red-velvet-la-nhom-nhac-kpop-duy-nhat-duoc-cu-toi-trinh-dien-o-trieu-tien-n20180323083058707.htm|tựa đề=Tại sao Red Velvet là nhóm nhạc K-Pop duy nhất được cử tới trình diễn ở Triều Tiên?|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=https://tinnhac.com/nhin-lai-hanh-trinh-tuy-chi-vai-ngay-nhung-vo-cung-y-nghia-doi-voi-red-velvet-tai-trieu-tien-114875.html|tựa đề=Nhìn lại hành trình tuy chỉ vài ngày nhưng vô cùng ý nghĩa đối với Red Velvet tại Triều Tiên|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=https://zingnews.vn/nhom-nhac-xinh-dep-gay-chu-y-trong-dem-dien-co-ong-kim-jong-un-post831078.html|tựa đề=Nhóm nhạc xinh đẹp gây chú ý trong đêm diễn có ông Kim Jong Un|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref>
Dòng 129:
Red Velvet được biết đến với hai phong cách đối lập của nhóm mà trước đây chưa được thấy trong số tất cả các nhóm nhạc nữ Hàn Quốc. Hai concept được gọi là mặt "red" và mặt "velvet" đều ảnh hưởng đến cả hình ảnh và âm nhạc mà nhóm phát hành. Một nửa "red" là sáng chói và bubblier trong khi mặt "velvet" mang hình ảnh mềm mại, trưởng thành và thanh lịch hơn.<ref>{{chú thích báo|url=http://enter.etoday.co.kr/view/news_view.php?varAtcId=129349#cb|title=[BZ시선] 트와이스와 레드벨벳이 가는 길|first=Eun-ho|last=Lee|access-date =ngày 9 tháng 12 năm 2017|website=etoday|date=ngày 9 tháng 12 năm 2017|language=ko}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://news1.kr/articles/?2154186|title=레드벨벳 "막내 예리 합류, 확실히 더 밝아졌다"(인터뷰①)|first=Soo-bin|last=Kwon|access-date =ngày 6 tháng 12 năm 2017|publisher=News1|website=news1|date=ngày 25 tháng 3 năm 2015|language=ko}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.star2.com/entertainment/music/music-reviews/2016/03/24/review-the-velvet-by-red-velvet/|tiêu đề=Review: The Velvet by Red Velvet|last=Chin|first=Chester|ngày=ngày 24 tháng 3 năm 2016|website=Billboard|ngày truy cập=ngày 6 tháng 12 năm 2017}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=https://www.fuse.tv/2016/03/red-velvet-one-of-these-nights-mv|tiêu đề=RED VELVET RETURNS WITH DREAMY R&B BALLAD 'ONE OF THESE NIGHTS': WATCH|last=Benjamin|first=Jeff|ngày=ngày 16 tháng 3 năm 2016|website=fuse.tv|nhà xuất bản=Fuse|ngày truy cập=ngày 6 tháng 12 năm 2017}}</ref>
 
Âm nhạc của nhóm cũng phụ thuộc vào hai theme tương ứng với hai concept. Bởi vì mặt "red" tượng trưng cho những gì tươi trẻ, sôi động nhất theo khuynh hướng của dòng nhạc [[pop]] trong khi mặt "velvet" lại mang vẻ bí ẩn, cuốn hút từ thể loại [[Rhythm and blues|R&B]] và [[ballad]].<ref>{{Chú thích web|url=http://popcrush.com/red-velvet-one-of-these-nights-the-velvet-mini-album/|tiêu đề=RED VELVET SHOW THEIR SOFTER SIDE WITH 'ONE OF THESE NIGHTS'|last=Stern|first=Bradley|ngày=ngày 16 tháng 3 năm 2016|website=PopCrush|ngày truy cập=ngày 6 tháng 12 năm 2017}}</ref> Cả hai mặt đều không giới hạn về thể loại, tuy nhiên ''KookMin Ilbo'' lưu ý rằng âm nhạc của nhóm không đơn giản như là "dance" vs "ballad" và còn mix với các yếu tố khác.<ref>{{Chú thích web|url=http://news.kmib.co.kr/article/view.asp?arcid=0923851789&code=13230000&cp=nv|ngày truy cập=ngày 6 tháng 12 năm 2017|website=kmib|author=Seon Mi-kyung|nhà xuất bản=Kookmin Ilbo|ngày=ngày 20 tháng 11 năm 2017|tiêu đề=[미묘의 아이돌 열전] ④ 레드벨벳, 귀여움 그 이상의 재능을 지닌 아티스트|ngôn ngữ=koreanko}}</ref> Single debut của nhóm "Happiness" được coi là bài hát đầu tiên của nhóm theo phong cách "red", là một bài hát urban europop với cường điệu âm thanh và âm thanh nhịp trống của châu Phi. Single thứ hai của nhóm "Be Natural" cho thấy hình ảnh hoàn toàn khác biệt của nhóm và được mô tả là classic R&B, cũng như biểu hiện của mặt "velvet".<ref>{{Chú thích web|url=http://www.xportsnews.com/jenter/?ac=article_view&entry_id=938340|first=Ji-hyun|last=Lee|ngày truy cập=ngày 30 tháng 1 năm 2018|website=Sports Chosun|ngày=ngày 26 tháng 1 năm 2018|tiêu đề=[엑's 초점] 레드와 벨벳의 완벽한 조화, 'bad boy'|trans-title=[X's Focus] The Perfect Harmony of Red and Velvet, 'Bad Boy'|ngôn ngữ=koreanko}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://tenasia.hankyung.com/archives/340788|ngày truy cập=ngày 22 tháng 11 năm 2017|website=tenasia|first=Soo-jung|last=Park|nhà xuất bản=10asia|ngày=ngày 16 tháng 10 năm 2014|tiêu đề=레드벨벳이 이런 장르도 소화할 수 있을까? (인터뷰)|ngôn ngữ=koreanko}}</ref>
 
Mini album đầu tiên của nhóm ''Ice Cream Cake'' lần đầu giới thiệu khái niệm khép và nhóm quảng bá với hai single, R&B/neo-soul cho bài "Automatic" và [[dance-pop]] cho bài "Ice Cream Cake". MV của mỗi bài đều cho thấy sự tương phản giữa hai phong cách, nếu như MV của "Ice Cream Cake" đầy màu sắc, khung cảnh vui tươi với vũ đạo fast-paced thì MV của "Automatic" có chủ đề tối hơn với vũ đạo gợi cảm hơn. Jeff Benjamin của ''[[Billboard]]'' nói rằng album " đã làm tốt trong việc xây dựng tính đồng nhất của hai mặt phong cách âm nhạc".<ref>{{Chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/columns/k-town/6656012/red-velvet-kcon-los-angeles-2015-interview|tiêu đề=Red Velvet Talk First U.S. Performance, Their New Member & Summer Songs at KCON 2015: Exclusive|last=Benjamin|first=Jeff|ngày=ngày 6 tháng 8 năm 2015|website=Billboard|ngày truy cập=ngày 6 tháng 12 năm 2017}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/columns/k-town/6516563/red-velvet-ice-cream-cake-automatic-ep|tiêu đề=Red Velvet Send Delicious 'Ice Cream' EP to World, Heatseeker Albums Charts|last=Benjamin|first=Jeff|ngày=ngày 27 tháng 3 năm 2015|website=Billboard|ngày truy cập=ngày 6 tháng 12 năm 2017}}</ref> Album phòng thu đầu tiên ''The Red,'' âm nhạc của họ chỉ tập trung mặt "red" theo sau là mini album The Velvet tập trung vào các bài hát "velvet" như tiêu đề đã cho biết. Album mùa hè đầu tiên của nhóm với tựa đề ''The Red Summer'' với single chính là "Red Flavor", một lần nữa họ tập trung vào phong cách "red", sau hai lần phát hành (''Russian Roulette'', ''Rookie'') mà không tách ra. Bài hát từ album phòng thu thứ hai ''Perfect Velvet'' âm nhạc vẫn được xem là một phần của mặt "velvet", nhưng với những gợi ý về 'Red', mà công ty quản lí của nhóm tin tưởng rằng đó là công thức hoàn hảo cho phong cách này, do tiêu đề có tên là ''Perfect Velvet.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.xportsnews.com/jenter/?ac=article_view&entry_id=912090&_REFERER=|ngày truy cập=ngày 6 tháng 12 năm 2017|author=Jeon Won|website=X Sports News|ngày=ngày 8 tháng 11 năm 2017|tiêu đề=[엑's 이슈] "업그레이드된 벨벳"…레드벨벳, 색다른 느낌의 '피카부'|ngôn ngữ=Koreanko}}</ref>'' Tuy nhiên ''The Velvet'' vẫn thành công về thương mại, và là một trong những single và album thành công nhất của nhóm. Các nhà phê bình cho rằng việc phát hành mini album là một bước quan trọng để giới thiệu mặt "velvet" đến với công chúng, nhưng cuối cùng Perfect Velvet đã nhận được sự công nhận của mọi người.<ref name="Osen12"/> Không chỉ các bài hát R&B và ballad như mong đợi từ phong cách "velvet", cũng kết hợp với dance-pop, electronic pop, disco và các yếu tố hip-hop. Sau khi phát hành, nhóm đã được những lời ca ngợi cho tính linh hoạt của nhóm và được hoan nghênh như một trong những album đa dạng của một nghệ sĩ K-pop.<ref>{{Chú thích web|url=http://star.ohmynews.com/NWS_Web/OhmyStar/at_pg.aspx?CNTN_CD=A0002378216|ngày truy cập=ngày 6 tháng 12 năm 2017|website=ohmynews|author=Kim Sang-hwa|nhà xuất bản=Oh My Star|ngày=ngày 20 tháng 11 năm 2017|tiêu đề=레드벨벳 정규 2집, 변화무쌍한 '음악적 실험'의 결정체|ngôn ngữ=koreanko}}</ref>
 
== Tầm ảnh hưởng ==