Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Trọng Kim”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Xóa chú thích
Dòng 114:
Trần Trọng Kim xuất thân trong một gia đình Nho giáo, từ nhỏ ông học [[chữ Hán]]. Vào năm [[1897]], ông theo học tại [[Trường Pháp-Việt]] Nam Định và học [[tiếng Pháp|chữ Pháp]]. Năm [[1900]], ông thi đỗ vào Trường [[Thông ngôn]] và đến năm 1903 thì tốt nghiệp.<ref name="vhvn_t3">Quốc Liên Mai, Văn Lưu Nguyễn, Hoài Anh, Minh Đức Hà (2007). ''Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Tập 3, Phần 1''. Nhà xuất bản Văn học. Trang 621.</ref>
 
Năm [[1904]], ông làm Thông sự ở [[Ninh Bình]]. Năm [[1905]], vì hiếu học nên ông qua [[Pháp]] học trường Thương mại ở [[Lyon]]. Năm 1906, nhân có Hội chợ đấu xảo tại [[Marseille]], [[Pháp]], ông xin làm một chân thợ khảm để được đi với [[Nguyễn Văn Vĩnh]] (1882-1936) sang dự.<ref name="vhvn_t3" />
 
Sau hội chợ, ông xin ở lại để học thêm tại các trường ở [[Ardèche]], [[Lyon]] rồi tiếp tục học ở Trường thuộc địa. Năm [[1909]], ông vào học [[Trường Sư phạm tiểu học Mơ-loong (Melum)|trường Sư phạm Melun]] (École Normale dinstituteurs de Melun, đã đóng cửa năm 2015 sau 135 năm hoạt động) và tốt nghiệp ngày [[31 tháng 7]] năm [[1911]] rồi về nước.<ref name="vhvn_t3" /><ref>Trần Văn Giáp (2007). ''Lược truyện các tác giả Việt Nam, Tập 2''. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Trang 121.</ref>
Dòng 126:
Từ [[thập niên 1910]] đến [[thập niên 1940]], ông cũng viết nhiều sách về [[sư phạm]] và [[lịch sử]]. Ngoài ra ông còn tham gia các hoạt động xã hội. Ông là Phó trưởng ban Ban Văn học của Hội [[Khai Trí Tiến Đức|Khai trí Tiến Đức]], Nghị viên [[Viện Dân biểu Bắc Kỳ]], Trưởng ban nghiên cứu Phật học của Hội Bắc kỳ Phật giáo.
 
Năm [[1943]], một năm sau khi ông về hưu, [[Nhật Bản]] kéo quân vào Đông Dương, họ lấy cớ "giúp các ông tránh sự bắt bớ của [[Pháp]]" đưa ông và chí sĩ Cử nhân [[Dương Bá Trạc]] (1884-1944) bí mật sang Chiêu Nam ([[Singapore]]).<ref>Xem hồi ký 'Một cơn gió bụi'</ref> Năm 1945, ông được quân đội Nhật đưa về nước.
 
===Hoạt động chính trị===
Dòng 132:
{{Xem thêm|Đế quốc Việt Nam|Chính phủ Đế quốc Việt Nam}}
[[Tập tin:Flag of the Empire of Vietnam (1945).svg|nhỏ|[[Cờ quẻ Ly]] của [[Đế quốc Việt Nam]], quốc kỳ từ [[12 tháng 6]] tới [[30 tháng 8]] năm 1945.]]
Ngày [[9 tháng 3]] năm 1945, [[Đế quốc Nhật Bản]] đảo chính [[Pháp]],<ref>Guy Faure, Laurent Schwab (2008). ''Japan-Vietnam: A Relation Under Influences''. Publisher NUS Press. ISBN 9971693895. Trang 27.</ref> độc chiếm thuộc địa [[Bán đảo Đông Dương|Đông Dương]]. Vấn đề quan trọng nhất đối với quân Nhật là duy trì bằng được "trật tự và ổn định" nhằm tìm nguồn cung ứng vật chất tại chỗ cho gần 100.000 lính Nhật, cũng như để cung cấp cho việc phòng thủ nước Nhật trước đà tấn công của quân Đồng Minh. SauTuy mộtnhiên, thờiđúng gianlúc duy trìđó, bộ máy hành chính Phápthực tạidân Đông Dương, Nhật đảokế chínhthừa từ Pháp, bắtđã giamtan các viên chức người Pháp, vì thế việc thành lập bộ máy cai trị bản xứ đặt ra như một đòi hỏi cấp bách.<ref name="nhandan1">[http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/binh-luan-phe-phan/item/25800102-nhan-thuc-lai-hay-xuyen-tac-va-phu-nhan-lich-su.html "Nhận thức lại" hay xuyên tạc và phủ nhận lịch sử ?], THIÊN PHƯƠNG, Báo Nhân dân, 13/03/2015</ref>
 
Ngay từ đêm 8/3, quân [[Nhật Bản]] đã được phái đến canh giữ nghiêm ngặt nhà của các quan lớn trong triều Nguyễn. Họ giữ các quan này ở trong nhà để chờ lệnh từ chỉ huy Nhật. Theo lời kể của đại thần Phạm Quỳnh, quân Nhật đi tìm tất cả các quan trong [[Viện cơ mật]] và giữgiam họ lại một chỗ. Đến sáng 9/3, khi đã đưa được Bảo Đại về kinh đô, Đại sứquan Nhật là Yokoyama đưa cho họ 2 văn bản đã viết sẵn: Bản tuyên bố hủy bỏ các hiệp ước nhà Nguyễn đã ký với Pháp và Bản tuyên bố giải tán Viện cơ mật, tất cả nhằm dọn đường cho việc thành lập nội các Đế quốc Việt Nam. Yokoyama nói thẳng ''"tôi cho các vị 15 phút để suy nghĩ"''. CácTrong hoàn cảnh đó, các quan nhà Nguyễn đồngkhông ýmuốnhaicũng vănkhông bản nàyđược.<ref>Nguyễn Kỳ Nam. Hồi ký 1925-1964. Tập 2, trang 166</ref>
 
Ngày [[11 tháng 3]] năm 1945, triều đình Huế tuyên bố hủy bỏ [[Hòa ước Giáp Thân (1884)|Hòa ước Patenôtre]] ký với Pháp năm [[1884]], thành lập [[Đế quốc Việt Nam]].<ref>Justin Corfield. ''Historical Dictionary of Ho Chi Minh City''. Publisher Anthem Press. ISBN 0857282352. Trang 138. "Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố Việt Nam độc lập".</ref><ref>Nghia M. Vo (2011). ''Saigon: A History''. Publisher McFarland. ISBN 0786486341. Trang 112.</ref> Vua [[Bảo Đại]] liền giải tán Hội đồng cơ mật gồm Thượng thư sáu bộ, tuyên bố từ nay sẽ tự mình cầm quyền nhưng bên cạnh nhà vua là viên Đại sứ Nhật ở Đông Dương [[Yokoyama Masayuki|Yokoyama]] làm 'Tối cao cố vấn'.<ref>Phạm Khắc Hòe (1983). ''Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc''. Nhà xuất bản Hà Nội. {{số trang}}</ref>
 
Chỉ huy quân Nhật, tướng [[Tsuchihashi Yuitsu]] ([[âm Hán Việt]]: Thổ Kiều Dũng Dật), nghĩ rằng chỉ cần Việt Nam độc lập trên danh nghĩa và chính phủ mới của Việt Nam phải được Nhật kiểm soát chặt chẽ.<ref>Masaya Shiraishi trích trong L Indochine française (Đông Dương thuộc Pháp) của Paul Isoart, Nhà xuất bản Presses Universitaires Françaises, 1982</ref> Thoạt đầu người ta dự định bổ nhiệm [[Phạm Quỳnh]] được chỉ định tạm quyền nhưng ông này quá thân [[Pháp]], ngoài ra ông ta thấy ngay "nền độc lập" có những giới hạn như giống như hồi còn chế độ thuộc địa Pháp: Không có tự chủ về ngoại giao, không có quân đội, không có độc lập tài chính..., NgôNhật Đìnhliền Diệmchọn cũngmột khôngnhân ravật Huếôn làmhoà thủhơn tướngchính nên Bảo Đại mời Trần Trọng Kim, đang ở [[Singapore]], giữ chức vụ này. Theo [[Daniel Grandcléme]], nhà vua Bảo Đại chẳng có vai trò gì trong việc chỉ định này.<ref>Bảo Đại, hay là những ngày cuối cùng của vương triều An Nam, Daniel Grandcléme. Nhà xuất bản Phụ nữ. Trang 184</ref>
 
Trong khi Bảo Đại tìm người lập nội các thì ngày 30/3/1945, trong một cuộc họp với công chức người Việt ở [[Long Xuyên]], Toàn quyền Nhật Bản là Minoda nói thẳng bằng tiếng Pháp về bản chất sự "độc lập" của Đế quốc Việt Nam:
Dòng 145:
Ngày 30 tháng 3 năm 1945, Trần Trọng Kim được Nhật Bản đón từ Băng Cốc về Sài Gòn.<ref name="tiasang">{{Chú thích web | url = http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=7258 | tiêu đề = Trần Trọng Kim, chính khách bất đắc dĩ? | tác giả = | ngày = | ngày truy cập = 3 tháng 7 năm 2014 | nơi xuất bản = Báo Tia Sáng | ngôn ngữ = | archive-date = 2014-03-05 | archive-url = https://web.archive.org/web/20140305034812/http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=7258 | url-status = dead }}</ref> Khoảng 5 tháng 4 năm 1945, Trần Trọng Kim đến Huế.<ref name="tiasang" /> Sau khi được yết kiến Bảo đại và gặp [[Trần Đình Nam]], Trần Trọng Kim cũng tán thành giải pháp lập nội các do Ngô Đình Diệm đứng đầu nên một bức điện thứ 2 triệu tập Ngô Đình Diệm được Tối cao cố vấn Yokoyama nhận chuyển đi. Nhưng Ngô Đình Diệm không ra Huế (do Nhật không chuyển điện, hay nhận điện mà từ chối). [[Bảo Đại]] triệu Trần Trọng Kim vào tiếp kiến lần thứ hai.
 
Trần Trọng Kim và một số nhà trí thức được giao thành lập nội các ở Huế vào ngày [[17 tháng 4]] năm 1945.<ref name="kimkhanh" /><ref>Thomas Hodgkin (1981).''Vietnam: the revolutionary path''. Nhà xuất bản Macmillan. Trang 362.</ref> Đây là một dạng chính[[nghị phủ hiện đạiviện]] đầu tiên tại Việt Nam và Trần Trọng Kim trở thành [[Thủ tướng Việt Nam|Thủ tướng]] đầu tiên của Việt Nam. Tham gia Nội các của ông đều là các nhà trí thức luật sư, bác sĩ, kỹ sư (một giáo sư, hai kỹ sư, bốn bác sĩ, bốn luật sư):<ref name="lethan_TTK" />
 
*[[Trần Đình Nam]] (1896-1974) y sĩ Đông Dương, Bộ trưởng Nội vụ.
Dòng 158:
*[[Phan Anh (luật sư)|Phan Anh]] (1911-1990), Luật sư, Bộ trưởng Thanh niên.
 
Ngoài các thành viên Nội các, nhiều nhà trí thức có tiếng cùng tham gia công việc của chính quyền:<ref name="lethan_TTK" />
[[Phan Kế Toại]] (Khâm sai Bắc bộ),
Bác sĩ [[Trần Văn Lai]] (Thị trưởng Hà Nội),
Dòng 181:
Theo Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng: ''"Với an ninh, quốc phòng và kinh tế tài chánh đều nằm trong tay quân đội Nhật, tất cả những gì mà chính phủ Trần Trọng Kim có thể đạt được trong việc giành lại chủ quyền cho Việt Nam thực tế là chỉ có tính cách biểu tượng. Nhưng trong tình huống [[Đông Dương]] vào năm chót của thế chiến thứ hai, biểu tượng đóng một vai trò rất quan trọng. Biết rằng thất bại của [[Nhật Bản]] chỉ là một vấn đề thời gian, Trần Trọng Kim và chính phủ của ông đưa ra một chương trình nhằm thay đổi tâm lý người Việt đến mức mà đất nước sẽ không thể trở lại tình trạng thuộc địa nữa một khi chiến tranh chấm dứt...".''<ref>{{chú thích báo|author=Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng|title=Chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945|url=http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/TranTrongKimGovernmentIn1945_MHungTMi-20060415.html|access-date = ngày 27 tháng 8 năm 2013 |newspaper=Đài Á Châu Tự do|date = ngày 15 tháng 4 năm 2006}}</ref>
 
Tháng 6 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là [[Đế quốc Việt Nam]]; đặt quốc thiều là bài "[[Đăng đàn cung]]"; quốc kỳ có "''nền vàng hình chữ nhật, giữa có hình quẻ Ly màu đỏ thẫm''".<ref name="tiasang" />
 
Chính phủ Trần Trọng Kim thực tế vẫn nằm dưới sự bảo hộ của quân đội Nhật chiếm đóng Đông Dương. Nhật Bản đưa ra [[Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á|chính sách Đại Đông Á]], tuyên bố ''"giúp các dân tộc da vàng đánh đổ ách thống trị của thực dân da trắng để lập nên khu vực thịnh vượng chung"'', nhưng thực ra đó chỉ là một cách gọi biện minh cho ách chiếm đóng mới của quân phiệt Nhật. Theo kế hoạch của Nhật, quân Nhật sẽ khống chế mọi mặt, cả về kinh tế, quân sự và chính sách nội bộ của các nước trong khối, miền Nam [[Châu Á]] sẽ trở thành [[thuộc địa]] cung cấp nguyên liệu cho Đế quốc Nhật.
 
Vì vậy giới sử học cho rằng đây chỉ là một [[chính phủ bù nhìn]] thân Nhật, không có thực quyền và không có được sự ủng hộ của dân chúng. Nó được xếp chung với các [[chính phủ bù nhìn]] do Nhật thành lập tại các nước bị họ chiếm đóng trong thế chiến thứ 2 như [[Mãn Châu quốc]], [[Chính phủ Uông Tinh Vệ]], [[Mông Cương]], [[Đệ nhị Cộng hòa Philipine]]...<ref name=pup /> Cùng với sự bại trận của Nhật Bản trong thế chiến, tất cả các chính phủ này đều tự sụp đổ hoặc bị Đồng Minh giải thể trong năm 1945<ref name=pup>Organization and order or batte of militaries in World war II: Germany's and Imperial Japan's allies & Puppet states. P 5-7</ref>, dù cho [[Cách mạng tháng Tám]] không nổ ra thì chính phủ này cũng sẽ bị giải thể khi quân Đồng Minh (Anh và Pháp) tới Việt Nam vào tháng 9/1945.
 
Về hành chánh, Đế quốc Nhật Bản đảo chính lật đổ Pháp ngày 09 tháng 3 năm 1945, nhưng không trao trả toàn bộ chủ quyền Việt Nam lại cho chính phủ [[Đế quốc Việt Nam]], mà mãi đến tháng 7 năm 1945, sau các cuộc thương lượng, toàn quyền Nhật là [[Yuichi Tsuchihashi]] mới trả lại ba thành phố nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng và Ðà Nẵng kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1945. Về việc thu hồi [[Nam Kỳ]] thì cuộc thương thuyết với Toàn quyền Tsuchihashi có kết quả mặc dù lúc đầu Tsuchihashi còn do dự vì triều đình [[Cao Miên]] cũng đòi đất Nam Kỳ. Trần Trọng Kim phái [[Nguyễn Văn Sâm]] là khâm sai vào [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]] tiếp thu. Ở [[Bắc Kỳ|ngoài Bắc]] thì Thống sứ Nishimura bàn giao với khâm sai [[Phan Kế Toại]] tại [[Hà Nội]] ngày 12 Tháng 8. Ngày 14 Tháng 8, chính phủ Trần Trọng Kim công bố chính thức tiếp thu Nam Kỳ<ref name="IEFA">Dommen, Arthur J. ''The Indochinese Experience off the French and the Americans, Nationalism and Communism in Cambodia, Laos, and Vietnam''. Bloomington, IN: Indiana University Press, 2001. 101-756.</ref> Chính phủ Trần Trọng Kim cũng thay chương trình học bằng [[tiếng Pháp]] bậc tiểu học và trung học sang chương trình học bằng [[tiếng Việt]], do học giả [[Hoàng Xuân Hãn]] biên soạn.<ref name="tiasang" /> Hành chánh được cải tổ với việc dùng chữ Việt trong tất cả các giao dịch của chính phủ ngoại trừ lĩnh vực y tế và các văn thư liên lạc với Pháp hoặc các công ty của người Trung Hoa.<ref name="tiasang" />
Dòng 195:
Dù phạm vi hoạt động có giới hạn, lại gặp sự bắn phá của [[Mỹ]] và sự cản trở của [[Việt Minh]], chính phủ Trần Trọng Kim cố gắng hết sức để tiếp tế gạo chống nạn đói. Vì tất cả thuyền trên 30 tấn đều bị Nhật trưng dụng, và các khu vực quan trọng liên tục bị Mỹ và Đồng Minh tấn công<ref>[https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-45346977]</ref>, việc chở gạo từ Nam ra Bắc bị chậm trễ. Bộ trưởng Tiếp tế [[Nguyễn Hữu Thí]] được gửi vào Sài Gòn sắp xếp việc vận chuyển gạo từ Nam ra Trung Bộ và Bắc Bộ. Các hải cảng xa Sài Gòn được dùng làm điểm khởi hành để tránh Mỹ oanh tạc. Tư nhân được phép tự do chuyên chở và mua bán gạo. Để ngăn hành vi gian dối, chính phủ ra lệnh kiểm soát giá cả và tồn kho lúa gạo. Người vi phạm có thể bị tử hình hoặc tịch thu tài sản. Ty Liêm phóng Kinh tế Bắc Bộ, do Nguyễn Duy Quế đứng đầu, thành lập để ngăn chặn việc buôn lậu. Vào cuối tháng 3, tất cả các hội cứu tế miền Bắc tập hợp lại thành Tổng Hội Cứu tế do [[Nguyễn Văn Tố]] cầm đầu, và đẩy mạnh lạc quyên cũng như chẩn tế. Từ tháng 3 tới tháng 5, Tổng Hội quyên được 783.403 đồng. Tại Nam Bộ, trong tháng 5 hơn 20 hội chẩn tế ra đời, và trong vòng một tháng các tổ chức trên quyên được 1.677.886 đồng, kể cả 481.570 đồng để mua và chuyên chở 1.592 tấn gạo cho nạn nhân vụ đói. Nhờ được mùa chiêm vào tháng 5 và 6/1945, và nhờ nhu cầu tiêu thụ giảm hẳn xuống sau khi hơn 1 triệu người chết đói, cuộc khủng hoảng lương thực giảm dần. Qua tháng 6/1945, nạn đói đã giảm đáng kể.<ref name="VNC">{{Chú thích tạp chí |author=Vu Ngu Chieu |date=1986 |title=The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March–August 1945) |url=https://www.cambridge.org/core/product/identifier/S0021911800064810/type/journal_article |journal=The Journal of Asian Studies |volume=45 |issue=2 |pages=307–308 |doi=10.2307/2055845}}</ref>
 
Chính phủ Trần Trọng Kim không có quân đội để tránh phải tham gia [[chiến tranh thế giới thứ II]] với tư cách đồng minh của [[Nhật Bản]]. Bộ trưởng Bộ thanh niên [[Phan Anh]] đã thành lập đoàn Thanh niên Tiền tuyến, Thanh niên Xã hội để thực hiện công tác trị an, bảo vệ. Tuy nhiên khi [[Cách mạng Tháng Tám]] nổ ra, do nhận thấy bản chất bù nhìn của chính phủ Đế quốc Việt Nam nên lực lượng Thanh niên Tiền tuyến đã rời bỏ hàng ngũ, quay sang ủng hộ lực lượng [[Việt Minh]], phong trào mà họ tin rằng sẽ thực sự giành được độc lập cho Việt Nam. [[Trường Thanh niên tiền tuyến]] đã đào tạo ra nhiều tướng lĩnh, sĩ quan của [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] sau này.
 
====Vai trò của Đế quốc Việt Nam====
Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, chiến tranh thế giới thứ 2 đang xảy ra. Pháp, các đế quốc châu Âu muốn giữ quyền lợi vốn có của mình tại các nước thuộc địa Đông Nam Á. Nước Mỹ, lực lượng chính của phe Đồng Minh tại mặt trận Thái Bình Dương muốn ngăn chặn và triệt tiêu ảnh hưởng của Nhật. Nhật đã giành quyền ảnh hưởng tại Đông Dương từ tay Pháp, Nhật Bản cần một chính phủ mới tại Việt Nam phụ thuộc, ủng hộ các quyền lợi của mình tại chiến lược bành trướng châu Á Thái Bình Dương. Kết quả là sự ra đời của chính phủ Trần Trọng Kim.
 
Chính phủ Trần Trọng Kim thường được [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] mô tả trong các tài liệu nghiên cứu chuyên môn trước và sau năm 1975, một cách trực tiếp hay gián tiếp, là bù nhìn của Nhật.<ref>Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, tr. 370-378.</ref><ref>'Việt Nam: Những Sự Kiện Lịch sử (1919 – 1945)' của [[Dương Trung Quốc]]</ref><ref>'Lịch sử Việt Nam Giản Yếu'. Nhà Xuất Bản Chính trị Quốc gia</ref><ref>Lịch sử Việt Nam, tập II. Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1989.</ref> Giới sử học phương Tây thì coi Đế quốc Việt Nam là một dạng [[chính phủ bù nhìn]] do Nhật thành lập tại các nước bị họ chiếm đóng trong thế chiến thứ 2 như [[Mãn Châu quốc]], [[Chính phủ Uông Tinh Vệ]], [[Mông Cương]], [[Đệ nhị Cộng hòa Philippines]]... Cùng với sự bại trận của Nhật Bản trong Thế chiến, tất cả các chính phủ này đều tự sụp đổ hoặc bị Đồng Minh giải thể trong năm 1945<ref>Organization and order or batte of militaries in world war ii: germany's and imperial japan's allies & Puppet states. P 5-7</ref> Chính phủ Trần Trọng Kim được phương Tây coi là một bộ phận của chính sách [[Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á]] của Nhật nhằm chiếm đóng Đông Á trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]], trong đó các chính quyền bản xứ phải vận động người dân và nền kinh tế trong nước phục vụ cho lợi ích của Đế quốc Nhật Bản<ref>Lebra, Joyce C. Japan's Greater East Asia Co-Prosperity Sphere in World War II: Selected Readings and Documents. New York: Oxford University Press, 1975, p. 157, 158, 160</ref>.
 
Trong bản Tuyên cáo trước quốc dân về đường lối chính trị, dưới sự khống chế của [[Nhật Bản]], nội các Trần Trọng Kim tuyên bố: ''"quốc dân phải gắng sức làm việc, chịu nhiều hy sinh hơn nữa và phải thành thực hợp tác với nước Đại Nhật Bản trong sự kiến thiết nền Đại Đông Á, vì cuộc thịnh vượng chung của Đại Đông Á có thành thì sự độc lập của nước ta mới không phải là giấc mộng thoáng qua"''. Bản Tuyên cáo của Chính phủ Trần Trọng Kim làm nhân dân bàn tán xôn xao, vì Đức đã bại trận, Nhật Bản cũng khó tránh khỏi thất bại, cho nên Trần Trọng Kim lại phải tuyên bố để trấn an dư luận: ''"Việc nước Đức đầu hàng không hại gì đến sự liên lạc mật thiết giữa hai nước Nhật và Việt Nam… Sự bại trận ấy không thể giảm bớt lòng chúng ta kiên quyết giúp Nhật Bản đeo đuổi cuộc chiến đấu cho đến khi toàn thắng để kiến thiết vùng Đại Đông Á… ta chỉ phải giữ vững cuộc trị an trong nước và chịu những hy sinh cần thiết để cho quân đội Nhật Bản được chúng ta tận tâm giúp đỡ về mặt tinh thần và vật chất, nền độc lập của chúng ta có như thế mới thật vững bền"''. Ông [[Phạm Khắc Hòe]], nguyên Tổng lý Ngự tiền văn phòng của nhà Nguyễn nói về bản Tuyên cáo: ''"Rõ ràng là Trần Trọng Kim đã hạ quyết tâm phục vụ quan thầy Nhật đến cùng…"''<ref name=tuanbao />.
Dòng 210:
*Ngày 25/8/1945, [[Bảo Đại]] đã đọc [[Chiếu thoái vị của Bảo Đại|Tuyên ngôn Thoái vị]] trước hàng ngàn người tại [[Ngọ Môn (hoàng thành Huế)|Ngọ Môn]], sau đó trao [[Bửu tỷ triều Nguyễn|ấn tín]] cho đại diện [[Việt Minh]] là ông [[Trần Huy Liệu]]. Bảo Đại nói: ''"Trẫm muốn làm dân một nước độc lập, hơn làm Vua một nước bị trị"''. Câu nói này chứng tỏ Bảo Đại thừa nhận trước đó nước Việt Nam chưa có được độc lập, và chính Bảo Đại đã "khai tử" bản Tuyên ngôn Độc lập giả hiệu mà ông phải đọc từ sức ép của Đế quốc Nhật.
 
Chính phủ Trần Trọng Kim muốn lợi dụng Nhật để hất cẳng hoàn toàn ảnh hưởng của Pháp, nhưng bản thân họ cũng bị Nhật khốngbiến chế,thành phải làm theo ý Nhậtnhìn. Chớp lấy thời cơ Nhật đảođầu chínhhàng Phápquân Đồng Minh, phải giải giáp vũ khí, lực lượng Việt Minh đã ra chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta"<ref>https://www.bienphong.com.vn/gia-tri-lich-su-cua-chi-thi-nhat-phap-ban-nhau-va-hanh-dong-cua-chung-ta-post269185.html, Giá trị lịch sử của Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”</ref>, kêu gọi dân chúng biểu tình, bãi công, giành lấy chính quyền. Sau khi chính quyền Việt Minh được thành lập, nhiều nhân vật của chính phủ Trần Trọng Kim đã tham gia vào chính phủ của Việt Minh.<ref name="lethan_TTK">{{Chú thích web | url = http://vanhoanghean.com.vn/dat-va-nguoi-xu-nghe6/nguoi-xu-nghe43/le-than-tran-trong-kim-1883-1953-hoc-gia--chinh-khach | tiêu đề = Lệ thần Trần Trọng Kim (1883 - 1953): Học giả &amp; Chính khách | tác giả = Thái Kim Đỉnh | ngày = 1-2-2013 | ngày truy cập = | website = Tạp chí Văn hóa Nghệ An | ngôn ngữ = | archive-date = 2013-03-29 | archive-url = https://web.archive.org/web/20130329011211/http://vanhoanghean.com.vn/dat-va-nguoi-xu-nghe6/nguoi-xu-nghe43/le-than-tran-trong-kim-1883-1953-hoc-gia--chinh-khach | url-status = bot: unknown }}</ref> Còn Trần Trọng Kim, do tư tưởng bảo hoàng quá cao nên ông vẫn bài xích Việt Minh vì cho rằng họ có tội "tiếm đoạt ngôi vua", và từ chối hợp tác với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới được thành lập.
 
Khi phát xít Nhật sắp bại trận, ngày 8/5/1945, Trần Trọng Kim vẫn còn phải ra bản tuyên cáo, yêu cầu quốc dân&nbsp;''"phải giữ vững cuộc trị an trong nước và chịu những hy sinh cần thiết để cho quân đội Nhật Bản được chúng ta tận tâm giúp đỡ về mặt tinh thần và vật chất. Nền độc lập của chúng ta có như thế mới vững bền"'' (Việt Nam tân báo ra ngày 18/5/1945). Ông [[Phạm Khắc Hòe]], nguyên Tổng lý Ngự tiền văn phòng của triều Nguyễn nhận xét rằng: Trần Trọng Kim ra sức giữ ngôi báu cho [[nhà Nguyễn]] nên sẵn sàng phục vụ cho [[phát xít Nhật]]. Khi [[Cách mạng Tháng Tám]] nổ ra, Trần Trọng Kim ra sức phản đối, tuy nhiên các thành viên khác trong nội các đã ủng hộ Cách mạng nên Trần Trọng Kim không làm gì được.<ref name=tuanbao>[http://tuanbaovannghetphcm.vn/thuc-chat-chinh-phu-tran-trong-kim-va-long-yeu-nuoc-cua-ong-thu-tuong/ Thực chất chính phủ Trần Trọng Kim và "lòng yêu nước" của ông Thủ tướng] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20180227213806/http://tuanbaovannghetphcm.vn/thuc-chat-chinh-phu-tran-trong-kim-va-long-yeu-nuoc-cua-ong-thu-tuong/ |date=2018-02-27 }}, Tuần báo Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 29/4/2017</ref>
 
Ở Việt Nam, đa số quần chúng tỏ ra thờ ơ lạnh nhạt với sự "độc lập" do quân đội Nhật dựng nên. Ngày 17/3/1945, ở các hương thôn, lý trưởng được lệnh tổ chức dân chúng mừng sự ra đời của Đế quốc Việt Nam tại các đình làng, nhưng không khí rất ảm đạm.<ref name=nghean>Trần Văn Chánh (26 tháng 4 năm 2014). [http://www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/9667-tan-man-nhan-vat-lich-su-tran-trong-kim-qua-nhung-trang-hoi-ky "Tản mạn nhân vật lịch sử Trần Trọng Kim qua những trang hồi ký"]. ''Tạp chí Văn hóa Nghệ An''.</ref>
 
Việc đưa Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các cho Bảo Đại trước sau đều do Ngôngười ĐìnhNhật Diệmđạo đãdiễn từđể chốidẫn dụ ông, chứ bản thân ông tự ý thức bản thân mình bất lực, họ trao quyền cũng chỉ để biến ông thành bù nhìn.<ref name=nghean /> Trong thư viết ngày 8/5/1947 tại Sài Gòn gửi học giả [[Hoàng Xuân Hãn]], ông Trần Trọng Kim nói về tình hình yếu kém của Đế quốc Việt Nam năm 1945, sự bất lực của ông và vai trò tiếp quản của Việt Minh như sau:<ref name=nhandan>[http://www.nhandan.com.vn/mobile/_mobile_chinhtri/_mobile_binhluanphephan/item/25800102.html "Nhận thức lại" hay xuyên tạc và phủ nhận lịch sử ?], Báo Nhân dân, 12/03/2015</ref>
:''"Còn về phương diện người mình (Đế quốc Việt Nam), thì tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng nhăng chẳng đâu vào đâu cả. Ai cũng nói vì lòng ái quốc, nhưng cái lòng ái quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa vị và quyền lợi, thành ra tranh giành nhau, nghi kỵ nhau rồi lăng mạ lẫn nhau... Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó khăn quá, mà mình thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ cái địa vị bàng quan mà thôi... Tôi vẫn biết việc chống Pháp chỉ có [[Việt Minh]] mới làm nổi... Nay Việt Minh đứng vào cái địa vị chống Pháp, tất là có cái thanh thế rất mạnh...".
 
===Lưu vong và hồi hương===
Khi quân Nhật thất trận sắp đầu hàng [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]], [[nội các Trần Trọng Kim (tháng 4 năm 1945)|chính phủ Trần Trọng Kim]] cũng chỉ tồn tại được đến ngày [[23 tháng 8]] năm 1945 thì sụp đổ trong [[Cách mạng tháng Tám]], tất cả thành viên nội các từ chức.<ref name="justin">Justin Corfield (2013). Historical Dictionary of Ho Chi Minh City. Nhà xuất bản Anthem Press. ISBN 0857282352. Trang 299.</ref><ref>PGS. TS. Phạm Hồng Tung. ''Nội các Trần Trọng Kim: Bản chất, vai trò và vị trí lịch sử''. Chương 2. [https://vnu.edu.vn/home/?C2029/N10734/Giai-thuong-dHQGHN-2010:-%E2%80%9CNoi-cac-Tran-Trong-Kim:-ban-chat,-vai-tro-va-vi-tri-lich-su%E2%80%9D.htm Bản tóm tắt].</ref>
 
Sau khi [[Việt Minh]] giành được chính quyền và nước [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] được thành lập, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đối xử với ông cực kỳ ưu đãi. Ông được sống yên ổn tự do ở nhà, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn cấp tiền lương cho ông. Chính ông đã viết trong hồi ký: ''"Bây giờ tôi không có tiền, may nhờ chính phủ Việt Minh ở Huế trả tôi 1.600 đồng tiền lương quá nửa tháng 8 tôi mới có tiền chi tiêu"''. Món tiền 1.600 đồng thời ấy là không hề nhỏ, có thể mua được hai tấn gạo<ref name="tuanbao"/>.
Dòng 295:
 
==Liên kết ngoài==
{{Thể loại CommonsCommonscat|Trần Trọng Kim}}
{{Wikisource tác giả}}
* Nguyễn Duy Phương (tháng 5 năm 1945). ''[https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k4238739v/f1.item.zoom Lịch-sử Độc-lập và Nội-các Đầu-tiên Việt Nam]''. Hà Nội: Việt Đông Xuất bản cục.