Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phạm Kính Ân”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
phồn thể Thẻ: Sửa chữ Hán Soạn thảo trực quan |
||
Dòng 1:
{{Thông tin nhân vật phong kiến
| tên = Phạm Kính Ân
| tên gốc =
| chức quan = [[Thái phó]], [[Thái úy]]
| tước vị = Bảo Trung Quan nội hầu<br>(保忠関内侯)
Dòng 10:
}}
'''Phạm Kính Ân''' ([[chữ Hán]]:
Từ nhỏ đã được họ Trần nuôi lớn<ref name=":1" />, từ khi nhà Trần khởi binh cho đến khi [[Trần Thái Tông]] Trần Cảnh ngồi vững trên ngai vàng, Phạm Kính Ân đã tham gia mọi chiến dịch của [[Quân đội Nhà Trần|quân Trần]]. Ông là vị tướng thân cận của bốn đời thủ lãnh họ Trần, bao gồm [[Trần Lý]], [[Trần Tự Khánh]], [[Trần Thừa]], và Trần Thái Tông. Phạm Kính Ân phò tá họ Trần bắt đầu từ lúc quân Trần khởi binh dẹp [[Quách Bốc]], cho đến tận cuối đời được tổng cộng 44 năm. Ông làm quan đến chức [[Thái úy]], một chức quan võ bậc cao trong [[quan chế nhà Trần]], đồng thời ông còn được Trần Thái Tông phong tước [[Hầu tước|Quan nội hầu]] với tên gọi '''Bảo Trung Quan nội hầu''' (保忠関内侯).
Dòng 24:
Không rõ Phạm Kính Ân bắt đầu làm quan từ bao giờ, nhà nghiên cứu [[Phạm Minh Đức (nhà nghiên cứu)|Phạm Minh Đức]] chỉ ra ông đã phục vụ cấm quân cho [[Thái sư]] [[Đàm Thời Phụng]] – cha đẻ của [[An Toàn Hoàng hậu]] Đàm thị và Thái úy [[Đàm Dĩ Mông]]. Cũng như thông tin của Phạm Minh Đức, Phạm Kính Ân theo đoàn quân của Đàm Thời Phụng đi chinh phạt người Man ở biên giới Tây Bắc. Chiến dịch thành công, Phạm Kính Ân lại theo quân đến biên giới Đông Bắc, thiết lập phòng tuyến chống quân Tống ở biên giới. Sau khi lập được nhiều chiến công, Phạm Kính Ân được phong làm "Chi hậu Đô trưởng"{{noteTag|Theo các tư liệu lịch sử, quân đội thời Lý-Trần được tổ chức theo số Ngũ. Cứ tính theo số Ngũ, ta có một Ngũ 5 binh, 5 Ngũ một Đô, 5 Đô một Đội, 5 Đội một Doanh, 5 Doanh một Quân, 5 Quân một Đoàn. Như vậy, Đô trưởng là một chức quan nhỏ, chỉ huy 25 binh sĩ.}}, trực thuộc đội cấm quân đóng tại Thăng Long<ref name=":1" />.
Sau khi [[Loạn Quách Bốc]] bùng nổ, Lý Cao Tông bỏ kinh mà chạy, vợ con cũng không mang theo. Trong bối cảnh ấy, Thái tử [[Lý Huệ Tông|Lý Sảm]] chạy xuống phía nam tìm đến Hải Ấp để nương nhờ họ Trần. Họ Trần che chở cho Thái tử, chủ nhà họ Trần là [[Trần Lý]] bèn gả [[Linh Từ Quốc mẫu|Trần Trọng Nữ]], do đó Thái tử phong tước "Minh tự" cho Trần Lý, em vợ Trần Lý là [[Tô Trung Từ]] thụ phong "Điện tiền chỉ huy sứ", phò tá Thái tử. Họ Trần đánh nhau với Quách Bốc, đến cuối năm thì dẹp yên. Trong nhóm này có một người được [[Đại Việt sử lược]] chép là "'''Phạm Ngu'''" (
Sự xuất hiện chính thức của Phạm Kính Ân chỉ từ [[Đại Việt sử ký toàn thư]], kỷ về Trần Thái Tông. Theo đó vào năm [[Giáp Ngọ]], Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 3 ([[1234]]), Phạm Kính Ân được phong [[Thái phó]], tước '''Bảo Trung Quan nội hầu''' (保忠関内侯). Tước vị "Quan nội hầu" có từ thời kỳ [[nhà Tần]], thuộc về "[[:zh:二十等爵|Nhị thập đẳng tước]]", chỉ dưới [[Hầu tước]], hay còn gọi "Liệt hầu" (列侯){{noteTag|Sách [[An Nam chí lược]] khi chép về tước vị của triều đại nhà Trần<ref>{{harvp|Lê Tắc|1961|p=110|loc="Quyển 14・Quan chế"|ps=: Từ nhà Đinh trở về sau, mới chịu Vương tước của nhà Tống gia phong. Nhưng ở trong nước tự đặt danh hiệu, bắt chước việc cũ của Triệu Đà, tự phong trong nước có Vương hầu, đặt quan có "Chánh" có "Tiếp", cũng giống như "Phẩm" và "Tòng" vậy.}}</ref>, đã ghi rõ hàng Hầu tước có: "Thượng hầu" (上侯), "Hầu" (侯) và "Tiếp hầu" (接侯). Trước mắt không rõ địa vị của tước hiệu quan nội hầu thời Lý-Trần ra sao, nhưng thông thường các tước liệt hầu đều khác với thượng hầu, có lẽ quan nội hầu thuộc phạm trù tiếp hầu mà Chí lược đề cập.}}. Đến năm [[Bính Thân]] ([[1236]]), [[tháng 10]] (âm lịch), Trần Thái Tông gia phong Hưng Nhân vương [[Phùng Tá Chu]] thành "Đại vương", còn Phạm Kính Ân được bái làm [[Thái úy]], tuy không dự hàng tước vương nhưng được ban áo mũ hàng đại vương<ref>{{harvp|Ngô Sĩ Liên|1993|loc=[https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt10a.html "Bản kỷ・Quyển 5, Thái Tông Hoàng đế"]|ps=: Gia phong Hưng Nhân vương Phùng Tá Chu làm Đại vương, Quan nội hầu Phạm Kính Ân làm Thái úy, ban cho mũ áo đại vương.}}</ref>.
|