Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phạm (họ)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đã lùi lại sửa đổi 70761599 của NhacNy2412 (thảo luận)
Thẻ: Lùi sửa Thêm tập tin Thêm thẻ nowiki Liên kết định hướng
Restored revision 70761599 by NhacNy2412 (Restorer)
Thẻ: Lùi sửa
Dòng 13:
| vi-yn =
| vi-cng=
<!-- Trung Quốc -->
| zh-ch = 范 - 範
| zh-gt =
Dòng 51:
Tại [[Trung Quốc]] có hai họ ''Fàn'' 范 và ''Fàn'' 範, là hai họ đồng âm nhưng khác nhau về viết chữ Hán dùng để ghi lại, mà ý nghĩa là giống nhau.<ref>(清)張玉書等編纂,漢語大詞典編纂處整理。康熙字典 標點整理本。上海:漢語大詞典出版社,2002年6月。ISBN 7-5432-0732-X。第852、994頁。</ref> Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa khi tiến hành giản hoá chữ Hán đã lấy chữ 范 làm chữ giản hoá của chữ 範<ref>漢語大字典編輯委員會。漢語大字典 第二版 九卷本,9卷。武漢:湖北長江出版集團 • 崇文書局;成都:四川出版集團 • 四川辭書出版社,2010年4月。 ISBN 978-7-5403-1744-7。第5135頁。</ref> nhưng chữ 範 khi dùng làm họ tên thì vẫn viết là 範, không giản hoá thành 范.<ref>谷衍奎。汉字源流字典。北京:语文出版社,2010年4月。ISBN 978-7-80184-972-4。第565页。</ref>
 
==ĐôiNhân nétvật vềnổi họ Phạmbật==
===Việt Nam===
==== Triều Đại Phong kiến====
*[[Phạm Hùng (Champa)|Phạm Hùng]] (chữ Hán: 范熊, trị vì 220 - 230) là vị vua thứ hai của nước [[Lâm Ấp]]. Ông là cháu ngoại của quốc vương đầu tiên, [[Khu Liên]], Ông là vị vua đầu tiên của [[họ Phạm]].
* [[Phạm Duật (Champa)|Phạm Duật]] (chữ Hán: 范逸) là một vị vua của nước [[Lâm Ấp]].
 
==== Hệ thống chi họ ====
Việt Nam có 6 dân tộc có người mang họ Phạm:
 
– 1 / 165 họ của [[Người Việt|người Kinh/gốc Kinh]],
 
– 1 / 11 họ của [[người Mường]],
 
– 1 / 11 họ của [[người Tày]],
 
– 1 / 172 họ của [[người Việt gốc Hoa]],
 
– 1 / 49 họ của [[người Việt]] gốc [[Khmer]].
 
<nowiki>*</nowiki> [[Dân tộc Thái]] có người họ Phạm vốn là họ Khằm / Cầm chuyển sang.
==== Phân bố ====
 
Họ Phạm là dòng họ phổ biến thứ 4 ở [[Việt Nam]] với 7% dân số với khoảng 6,7 triệu người chỉ đứng sau họ [[Nguyễn]], [[Trần]], [[Lê]]. Tuy có rất nhiều nhân tài trí sĩ nhưng chưa một lần có người làm vua, nhiều người họ Phạm là "lương đống của xã tắc".
 
Nhân vật lịch sử họ Phạm đầu tiên trong chính sử là danh tướng [[Phạm Tu]] – khai quốc công thần triều [[Nhà Tiền Lý|Tiền Lý]], đã có công đánh đuổi quân [[Lương]] ([[542]]), đánh tan quân xâm lấn [[Lâm Ấp]] ([[543]]), dựng Nhà nước [[Vạn Xuân]] ([[544]])
 
Theo các bản Thần phả, Thần tích sự xuất hiện các vị họ Phạm sớm hơn, như:
 
- [[Phạm Quốc Lang]] quốc lang đại Vương, tướng thời Hùng Vương thứ 6 chống giặc Ân.Thờ ở đền Hạ, Đông Ngàn, [[Đông Hội]], [[Đông Anh]], [[Hà Nội]]
 
– [[Nam Hải Đại Vương]] Phạm Hải, và ba anh em Phạm Vĩnh (Trấn Tây An Tam Kỳ Linh ứng Thái Thượng đẳng Thần) thế kỷ III trước CN, giúp [[Hùng Vương|Vua Hùng]] thứ 18 đánh [[Thục Hán|Thục]]
 
– Tướng quân [[Phạm Gia]] – tướng của [[An Dương Vương]], 208 trước CN lui quân về vùng Hoài Đức
 
– [[Phạm Danh Hương]] chồng của [[Bát Nạn Đại tướng|Bát Nạn]] nữ tướng quân (thời [[Hai Bà Trưng]])
 
Họ Phạm ở Việt Nam có thể có hai nguồn gốc chính: từ cộng đồng tộc Việt trong [[Bách Việt]] của nước [[Văn Lang]], [[Âu Lạc]] xưa, từ nguồn gốc ở các tỉnh miền [[Hoa Nam|Nam Trung Quốc]] di cư sang và được Việt hoá. Ngoài ra còn có họ Phạm từ các dòng họ khác đổi sang như họ Mạc,…
 
Các dòng họ Phạm – Việt Nam không có một ông tổ duy nhất. Do vậy, BLL họ Phạm Việt Nam đề nghị suy tôn Đô Hồ Đại vương [[Phạm Tu]] là một Thượng Thủy tổ họ Phạm Việt Nam. Ông là nhân vật lịch sử đầu tiên của dòng họ Phạm có công lao đối với đất nước đã được ghi vào sử sách. Chúng ta cũng không quên công lao các vị đã sinh thành dưỡng dục Thượng thủy tổ. Tại miếu Vực có thờ hai vị thân sinh và Đô Hồ Đại vương.
 
Họ Phạm Việt Nam có sự chuyển cư rất mạnh lan tỏa trong vùng châu thổ [[sông Hồng]], rồi vào Ái Châu ([[Thanh Hóa]]). Từ Thanh Hóa lại có sự chuyển cư đến vùng Sơn Nam Hạ (ngày nay là các tỉnh [[Hải Dương]], [[Hưng Yên]], [[Thái Bình]], [[Hà Nam]], [[Nam Định]], [[Ninh Bình]],...) vào miền Nam Trung bộ ([[Quảng Nam]], [[Quảng Ngãi]], [[Bình Định]],... mạnh nhất là vào thời [[nhà Lê sơ|nhà Lê]] (thế kỷ thứ XV). Trong thời kỳ hiện đại, người họ Phạm Việt Nam định cư ở nhiều nước trên thế giới.{{fact|date=7-2014}}
 
<ref>{{Chú thích web|url=http://daidoanket.vn/mat-tran/tim-ve-nguon-coi-dong-toc-tintuc86055|title=Tìm về nguồn cội dòng tộc|last=Nguyễn|first=Thành Luân (báo Đại Đoàn Kết)|date=|website=|archive-url=|archive-date=|url-status=|access-date =}}</ref>
 
'''Luận thuyết về họ Phạm ( luận thuyết 1)
 
Thời xa xưa ở Trung Quốc thường người ta lấy địa danh mình sinh sống, lấy sắc phong hoặc lấy theo họ của chủ mà mình thờ làm họ. Họ Phạm cũng không ngoài quy luật đó.
 
Theo [[Nguyên Hà Tính Toản]] và [[Lộ Sử]], [[Lưu Luy]] thuộc dòng [[Nghiêu|Đường Đế Nghiêu]]. Lưu Luy lập ra [[Đường (nước)|nước Đường]] nay ở tỉnh [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]], [[Trung Quốc]] và thường gọi là Đường Đỗ Thị. Vào triều đại [[nhà Chu]], [[Chu Thành vương|Chu Thành Vương]] chiếm nước Đường. Một người cháu Lưu Luy được cấp đất Đỗ Thành ở [[Tây An]], tỉnh [[Thiểm Tây]] và được phong tước Đỗ bá. Do vậy, con cháu nhận Đỗ (杜) làm họ.
Vào cuối đời [[nhà Chu|Tây Chu]], [[Chu Tuyên vương|Chu Tuyên Vương]] tin vào những điều huyền hoặc, quan thượng đại phu là [[Đỗ Bá]] không làm theo nên bị giết, khi đó có quan hạ đại phu là Tả Nho can rằng: ''"Những chuyện huyền hoặc ngày nay sao nhà vua lại quá tin như vậy. Nếu nhà vua giết Đỗ Bá thì kẻ hạ thần e rằng người nước ngoài nghe thấy những chuyện huyền hoặc cũng đem lòng khinh bỉ, xin nhà vua nghĩ lại"''. Người đời sau thương Đỗ Bá là người trung, mới lập đền thờ, gọi là"miếu Đỗ Chủ"cũng gọi là"Hữu tướng quân miếu".
 
Đất Đỗ Thành lại bị [[Chu Tuyên vương|Chu Tuyên Vương]] chiếm và con của Đỗ Bá là Đỗ Thấp Thúc chạy sang nước Tấn, rồi được phong chức Sĩ Sư nên đổi họ Đỗ thành họ Sĩ. Đó là thời đầu nhà [[nhà Chu|Đông Chu]], [[Chu U vương|Chu U Vương]], [[781 TCN]]-[[771 TCN]].
 
Đến đời chắt của ông này là [[Sĩ Hội]]. Đó là ông tổ của họ Phạm. Sĩ Hội ''"là người tín nghĩa, ôn hòa mà không nhu nhược, uy nghiêm mà không dữ tợn"''. Ông có công trong việc trị quốc và dẹp yên những nước Xích Địch. [[Chu Định vương|Chu Định Vương]] (607-571 TCN) cho ông phẩm phục chức thượng khanh và kiêm chức [[thái phó]], lại được phong ở đất Phạm. Từ đó con cháu của Sĩ Hội đều đổi thành họ Phạm. Sĩ Hội là [[Phạm Mạnh]], con là [[Phạm Mang]], cháu là [[Phạm Phường]].
 
Một thời gian sau đó quyền lực nước Tấn bị chia sẻ vào tay tám họ, rồi bốn họ, rồi nước Tấn bị chia làm ba nước [[Hàn (nước)|Hàn]], [[Triệu (nước)|Triệu]], [[Ngụy (nước)|Ngụy]]. Sử gọi ba nước đó là Tam Tấn. Thời kì đó là đời vua [[Chu Kính Vương]] thứ 28 tức năm 492 TCN. Họ Triệu lấy danh nghĩa vua Tấn kết hợp với họ Hàn và họ Ngụy đánh họ Phạm và họ Trung Hàng. Phạm Cát Xạ và Trung Hàng Di phải cố thủ ở Triều Ca (kinh đô nhà Thương cũ). Cuối cùng thành Triều Ca vỡ, con cháu họ Phạm phải chạy sang nước Tề rồi kể từ đó đi lưu lạc khắp nơi.
 
'''LẬP HỌ BÊN SÔNG''' ( luận thuyết 2 )
 
Theo Phạm Ngọc Đồng thì họ Phạm có từ cuối [[nhà Thương]] và đầu [[Nhà Chu|nhà Chu.]] Chuyện rằng: Khi Vũ Vương 武王 giết [[Trụ Vương|vua Trụ]] cướp được ngôi nhà Thương (商, 1766–1122 tCn), có một ông quan nhà Thương không chịu thần phục nhà Chu (周, Zhou, 1122–256 tCn). Ông nói : “Bất thực Chu cốc” (不食周穀, không thèm ăn gạo nhà Chu), rồi ông cùng gia nhân kéo nhau lên một nơi núi cao rừng sâu, lấy gỗ rừng làm nhà cửa và phát hoang trồng trọt để lấy lương thực nuôi sống gia đình. Bên cạnh chỗ phát hoang trồng trọt của gia đình ông lúc bấy giờ có một con sông gọi là Sông Dĩ cạn khô. Sau khi phát hoang trồng trọt và khơi nguồn nước từ núi cao để trồng trọt và sinh hoạt thì Sông Dĩ có đầy nước. Nhìn dòng sông đầy nước, ông nói: “[[Dĩ Hữu Thuỷ]]” (已有水, Sông Dĩ đã có nước), rồi lấy 3 chấm thuỷ 氵đặt cạnh chữ Dĩ 已 trên có bộ thảo 艹, gọi là chữ Phạm 范 để đặt tên cho dòng họ của mình tách ra sinh sống tại đây. Từ đó Trung Quốc có một tộc người lấy tên họ Phạm. Bởi vậy ở Từ đường nếu viết 已有水 thì cũng có nghĩa như: 范族祠堂 “Phạm Tộc Từ Đường”.
 
 
== Các nhánh lớn ==
===Họ Phạm ([[Thanh Hà]], [[Hải Dương]])===
 
Đây là nhánh họ Phạm lớn ở Việt Nam cho đến nay. Có từ đường thờ phụng thủy tổ dòng họ Phạm tại đây. Đến nay đã có 18 đời con cháu sinh sôi và phát triển ở đây. Phạm tộc được chia thành 4 chi ([[Phạm Đỉnh]], [[Phạm Khả]], [[Phạm Đình]] và [[Phạm Kim]]) Trong đó chi Phạm Đình có con cháu rất đông đảo.
 
Nổi bật có cụ tổ đời thứ 5 [[Phạm&nbsp;Đỉnh Chung]] 范鼎鍾&nbsp;đỗ '''''[[Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ&nbsp;xuất thân]]''''' khoa [[Giáp Thìn]], năm Bảo Thái thứ 5 (1724)'''''.''''' Làm quan dưới thời [[Hậu Lê]] (Vua [[Lê Dụ Tông]]) chức Hàn lâm học sĩ cai quản sổ sách trong triều.
 
===Họ Phạm Thổ Hào ([[Thanh Chương]], [[Nghệ An]]) ===
Phát tích từ xã Thổ Hào, nay là xã Thanh Giang, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Nơi đây thờ phụng Thủy tổ [[Phạm Kinh Vỹ]], đỗ [[Giải nguyên]] kì thi Hương khoa [[Giáp Ngọ]], năm Vĩnh Thịnh thứ 10 (1714), đỗ [[Đồng tiến sĩ xuất thân|Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân]] khoa [[Giáp Thìn]], năm Bảo Thái thứ 5 (1724).
=== Họ Phạm Đình ([[Yên Đồng, Yên Mô, Ninh Bình]])===
Cụ Phạm Đình Chân sinh năm 1514 tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Cụ giữ chức Đô Úy trông coi việc quân vùng Trấn Sơn Nam ( gồm các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Thái Bình và Ninh Bình ngày nay) đời vua Lê Trung Tông và @ Lê Anh Tông. Khi từ quan, cụ cùng con trai Phạm Đình Châu về Xã Yên Đồng Huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình ngày nay. Cụ trở thành cụ Tổ của dòng họ Phạm Đình ở đây.
Nhà thờ cụ được Công nhận di tích lịch sử cấp tỉnh Ninh Bình. Ngày giỗ cụ ngày 18/11 âm lịch hàng năm.
Dòng họ Phạm Đình là dòng họ lớn tại đây với bốn chi lớn: Phạm Đình, Phạm Ngọc, Phạm Văn và Phạm Doãn
 
===Họ Phạm Ngọc Quế ([[Quỳnh Phụ]], [[Thái Bình]]) ===
Phát tích từ làng Ngọc Quế (hữu ngạn [[sông Luộc]]), xã [[Quỳnh Hoa, Quỳnh Phụ|Quỳnh Hoa]], huyện [[Quỳnh Phụ]], tỉnh [[Thái Bình]] (cả vùng Ngọc Quế có một họ Phạm duy nhất,nên gọi là họ Phạm Ngọc Quế). Theo [[Truyền thống truyền miệng|truyền khẩu]] thì dòng họ này thuộc dòng dõi [[Phạm Lệnh Công]] (Phạm Chiêm), thuộc một trong các chi ngành [[Phạm Hạp]] (979) - ([[Phạm Hạp]] là ông tổ 8 đời của danh tướng [[Phạm Ngũ Lão]] một danh tướng [[Nhà Trần|thời Trần]] - căn cứ theo sách Kỷ Yếu Tân Biên của Phạm Côn Sơn. Như vậy, dòng họ Phạm Ngọc Quế là cùng chi ngành với danh tướng trên), làng Trà Hương, Khúc Giang, [[Nam Sách]], [[Hải Hưng]]. Thủy tổ ngành tại Ngọc Quế là Phạm Đình Xoắn giỗ ngày 20 tháng Giêng âm lịch (sinh được 4 chi). Họ này hiện tại còn lại 3 chi, chi trưởng tại [[Vĩnh Bảo]], [[Hải Phòng (định hướng)|Hải Phòng]] (chi cụ Phạm Văn Lĩnh), chi hai tại Ngọc Quế, [[Quỳnh Hoa, Quỳnh Phụ|Quỳnh Hoa]], [[Quỳnh Phụ]], [[Thái Bình]] (chi cụ Phạm văn Biên), chi ba tại nơi phát tích là [[Nam Sách]], [[Hải Hưng (tỉnh)|Hải Hưng]],chi cụ Phạm Văn Lẫm.(Con cháu chi ngành này di cư và hiện cư trú tại [[Lục Ngạn]], [[Hà Bắc (tỉnh cũ)|Hà Bắc]]..)....
 
Theo thần tích miếu Hoàng Bà (Bái Trang, Quỳnh Hoa, Quỳnh Phụ, Thái Bình) do quan Giám Bách thần [[Nguyễn Hiền]] (1753) chép lại theo bản chính của quan [[Hàn lâm viện|Hàn Lâm viện]] Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính, thì vào thời vua [[Lý Anh Tông]] có bà Phạm Thị Huệ (người họ Phạm Ngọc Quế) lấy ông Nguyễn Khuê người làng Bái Trang sinh ra được ba người con gái là Nguyễn Thị Kim (Kim nương), Nguyễn Thị Lan (Lan nương) và Nguyễn Thị Thanh (Thanh nương). Bà Kim nương Nguyễn Thị Kim là một trong các hoàng phi của vua [[Lý Cao Tông]]. Ba bà có nhiều công lao giúp vua dẹp loạn giữ nước nên bà Lan nương được phong là "Lương Quốc Thiên Ninh Thái Trường Hoàng Ân công chúa" và bà Thanh Nương là "Thiên Cực Thái Trường Thiện Duyên công chúa".Bà Kim Nương được phong là"Linh Thông Quốc Mẫu Hoàng Bà quý phi công chúa "Đền miếu các bà vẫn còn được thờ phụng đến ngày nay (nghè Vua Bà thôn Bái Trang, xã Quỳnh Hoa).Căn cứ theo thần tích trên thì Họ Phạm Ngọc Quế là một dòng họ rất lâu đời đã cư trú tại đây (Ngọc Quế,Quỳnh Hoa[[Quỳnh Phụ, Thái Bình|,Quỳnh Phụ,Thái Bình]]). Và cũng là một trong những ngành miêu duệ của một dòng họ [[Phạm Lệnh Công|Phạm]] anh hùng...
 
===Họ Phạm Đông Ngạc ([[Từ Liêm]], [[Hà Nội]])===
Họ Phạm làng Đông Ngạc ([[đông Ngạc|làng Vẽ]] cổ) (nay thuộc xã Đông Ngạc, [[huyện]] [[Từ Liêm]], [[Hà Nội]]), hình thành từ cuối thời [[nhà Trần]] (thế kỷ thứ 14). Thủy tổ là cụ [[Phạm Húng]] (khoảng năm 1345).Căn cứ vào những thư tịch Hán Nôm hiện còn lưu giữ được như: ''Phạm tộc phả ký'', ''Phạm tộc gia phả'', ''Đông Ngạc Phạm tộc gia tiên''... thì tổ tiên họ Phạm gốc ở [[Ái Châu]] ([[Thanh Hóa]] ngày nay). Do những biến cố của lịch sử, có 3 anh em họ Phạm đầu tiên rời Ái Châu ra đinh sinh cơ lập nghiệp ở các nơi: một người về [[Đôn Thư]] ([[Thanh Oai]] - [[Hà Tây]]), một người về [[Bát Tràng]] ([[Gia Lâm]] - Hà Nội) và một người về Đông Ngạc (Từ Liêm - Hà Nội). Con cháu của họ di cư, lập nghiệp trên khắp toàn quốc, trong đó có một nhánh họ Phạm ở Hải Phòng. (Về chi họ Phạm ở Hải Phòng, vì chưa đủ tài liệu nên chưa thể hoàn thành, sẽ tiếp tục được nghiên cứu). Trải quan trên 600 năm, dòng họ Phạm làng Đông Ngạc đã phát triển tới 16 chi (Đại tôn), thuộc hai hàng Giáp, Ất và qua 22 thế hệ con cháu.
 
Tổ tiên họ Phạm rất nghèo nhưng hiếu học, trọng đạo nghĩa, đã mở đầu truyền thống học giỏi, đỗ cao và thanh liêm, có nhiều công lao đóng góp cho đất nước xóm làng. Dòng họ này thời phong kiến đã có 9 Tiến sĩ (trong đó có 1 Bảng nhãn, 1 Hoàng giáp) và 2 Sĩ vọng.
 
[[Phạm Thọ Lý]] (1610-1685) và Phạm Quang Dung (1675-1739) được thờ là Hậu thần tại bái đường đình [[đông Ngạc|làng Đông Ngạc]] vì đã có nhiều công lao với nước, với dân. [[Phạm Quang Dung]] đỗ Tiến sĩ năm Bính Tuất (1706). Ông đã từng làm Chánh sứ Trung Quốc năm Nhâm Tý (1732), làm quan tới chức Công bộ [[Thượng thư]], Lệ quận công.
 
[[Phạm Quang Trạch]], đỗ bảng nhãn khoa thi năm Quý Hợi (1683), đã từng giữ chức Lễ bộ hữu thị lang, tác giả cuốn ''Nam chưởng kỷ lục'' về mối bang giao giữa [[Đại Việt]] và [[Lào|Ai Lao]].
 
[[Phạm Gia Chuyên]] (1791-1862), cháu 5 đời của [[Bảng nhãn]] [[Phạm Quang Trạch]], cháu 4 đời của Tiến sĩ Phạm Nguyên Ninh, đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm 1832. Ông làm quan thời [[nhà Nguyễn]], đã từng giữ các chức Tri phủ Kiến Xương (Thái Bình), Lễ bộ viên ngoại lang, Đốc học tỉnh Ninh Bình, Tự nghiệp Quốc tử giám. Ông tham gia soạn cuốn ''Quốc sử lược biên''.
 
Trong thời hiện đại, nhiều người trong họ đã thành đạt, trong đó có Trung tướng GS-TS [[Phạm Gia Khánh]] (Giám đốc [[Học viện Quân Y|Học viện Quân y]]), GS-TS [[Phạm Gia Khải]] (Viện trưởng Viện Tim mạch), Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam [[Phạm Gia Khiêm]] là một hậu duệ đời thứ 17 chi Ất.
 
Con cháu của dòng họ này đã lưu giữ được gần như là trọn vẹn các bản gia phả, tộc phả được bảo quản tại [[Viện Hán Nôm]] và trong các gia đình từ đời thứ nhất đến đời thứ 19.
 
===Họ Phạm Vĩnh Lại ([[Vụ Bản]], [[Nam Định]])===
Họ Phạm Vĩnh Lại, Thiên Bản (tên cũ Cổ Sư) nay là thôn Vĩnh Lại, Xã Vĩnh Hào, về lập làng từ đầu thế kỷ 15 sau khi 370 người bị Hồ Quý Ly giết sau vụ ám sát hụt ông ở Hội thề Đốn Sơn. Gốc vốn Trần tộc Tức Mặc đổi sang họ Phạm.
 
Hiện từ đường Phạm Tộc Vĩnh Lại vẫn còn bức đại tự " Dĩ thủy nguyên Trần_已 水 源 蔯" để chỉ về nguồn cội và cũng là 1 cách chiết tự họ Phạm do Ly tán từ Kinh Thi:"Phong thủy hữu khỉ. Vũ vương khởi bất sĩ. Di quyết tôn mưu. Dĩ yến dực tử. Vũ vương chưng tai!
豐水有芑.武王豈不仕.詒厥孫謀.以燕翼子.武王烝哉."
 
Năm 1400 cụ Trần Đức đựợc đổi sang Phạm Đức, 5 họ lập nên Vĩnh Phúc Trang.
 
Từ thế kỷ 17 tới cuối thế kỷ 18, trải qua gần 200 năm họ Phạm Cổ Sư đóng góp cho đất nước hơn chục quan văn võ, trong đó có 1 Thiếu bảo Quận công, 4 tước Hầu, 2 tước Bá. Có công mở chợ Gôi, mở chợ Sy, đào sông Vĩnh Giang để tưới tiêu chống lụt lội, làm cầu, miễn tô thuế cho dân 50 năm. Dòng họ có 4 người được thờ làm Phúc thần của làng.
 
Từ đời Lại Quận Công Phạm Đình Kính, làng có 1 Tiến sỹ, 2 Cống sỹ, và hơn chục Giám sinh quốc tử giám, Chiêu văn quán. Trường tư do dòng họ Phạm đào tạo nhiều thế hệ trong vùng.
 
Phạm Đức Quảng (hay Phạm Phúc Quảng): một võ tướng có công trong đánh giặc, giữ yên biên cương phía Nam, lại có công chiêu dân, lập ấp ở vùng Ma Linh (sau đổi là Minh Linh, thuộc phía Bắc tỉnh Quảng Trị ngày nay).Trước làm Tán vị công thần, Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân Cẩm phú hầu y vệ Đô chỉ huy sứ tư đô chỉ huy cơ quan phong tặng Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu Lễ bộ Tả thị lang Cẩm phú hầu. Ông là ông nội tiến sỹ Phạm Đình Kính.
 
Phạm Thuần Hậu: ông là cha của tiến sỹ Phạm Đình Kính. Ông làm thừa chính sứ Lạng Sơn, có công giúp dân khắc phục cảnh đồng chiêm chũng, mở trường khuyến khích việc học tập.Trước làm Quang tiến thân lộc đại phu, Trinh Nghĩa nam, tặng Cung hiển đại phu, sau tặng thêm Đặc tiến Lễ bộ Tả thị lang, Cẩm phú hầu, Kim tử vinh lộc đại phu, Hộ bộ Tả thị lang, Trinh Nghĩa hầu.
 
[[Phạm Đình Kính]]: Ông thờ hai vua Lê Dụ Tông, Lê Thuần Tông, làm quan đến Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, trải qua Hữu thị lang bộ Binh, tả thị lang Bộ Lễ, tả thị lang Bộ Hộ, Đô ngự sử, Lễ bộ thượng thư, Hình bộ thượng thư, Binh bộ thượng thư, Nhập thị tham tụng kiêm Đông các Đại học sĩ, Nhập thị kinh diên. Khi về hưu được phong tước Vĩnh Lại Quận công, được tặng chức Thiếu bảo. Ông 2 lần đi sứ Nhà Thanh làm vẻ vang quốc thể, được vua Ung CHính ban biển vàng " Vạn Thế Vĩnh Lại" và 3 bộ sách quý. Ông cùng chánh sứ Phạm Khiêm Ích và phó sứ Nguyễn Huy NHuận có công lớn trong việc giữ gìn cương thổ quốc gia: đòi lại 120 dặm châu Thủy Vĩ và mỏ đồng Tụ Long. Mỏ này chiếm trữ lượng khoảng 70% đồng của Việt Nam, có ý nghĩa quan trọng trong tài chính và quân sự.
 
Phạm Thanh Thận (húy Tùy) là con trai cả Lại Quận Công, đỗ Hương Cống khoa Ất Tỵ (1725), làm tới Thiêm tri thị nội Tả binh phiên tả dụ đức Hương Phái Hầu, phong Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, gia phong Dực bảo trung hưng linh phù tôn thần. Ông có con gái Tuệ Mẫn gả cho Nguyễn Bá Uông, con trai tiến sỹ Nguyễn Bá Lân, dòng họ Nguyễn Cổ Đô- Ba Vì.
 
Phạm Đôn Mẫn: đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu tán ty Tuyên QUang sứ tán ty thừa chánh sứ tư tham chính nghị Huy Lĩnh Bá. Ông cùng 14 gia đình lên Cam Đường sứ Tuyên Quang (nay là Thị xã Cam Đường, tỉnh Lào Cai) để lập ấp mới và bảo vệ biên giới phía bắc.
 
Cháu trai Lại quận Công là Phạm Đình Tiến (một số tư liệu dịch là ĐÌnh Trùy, húy Thùy) Trì uy tướng quân Đô chỉ huy sứ đồng tri Tiến Lĩnh Hầu, gia phong Dực bảo trung hưng linh phù tôn thần.Ông giỏi binh pháp, tham gia dẹp loạn khởi nghĩa Vũ Đình Dung. Do dân phiêu tán,ruộng đồng bỏ hoang nhiều năm, năm Cảnh Hưng thứ 15 (Quý Mùi 1763) ông nhận chỉ của vua Lê Hiển Tông về quy tập dân chúng và đổi làng Hóp thành Làng Báo Đáp, nay là làng Báo Đáp, xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
 
=== Họ Phạm ([[Quảng Trạch]], [[Quảng Bình]]) ===
Họ Phạm làng Cảnh Dương (nay xã Cảnh Dương, huyện [[Quảng Trạch]], [[Quảng Bình]], hình thành 1643. Thủy tổ [[Phạm Ông Chăm]].
 
Phạm Chân sinh năm Giáp Tý (1804), năm Đinh Dậu (1837) đậu cử nhân, năm Mậu Tuất (1838) đậu Tiến sĩ. Phạm Chân được cử giữ chức Án Sát tỉnh Thanh Hóa, Án sát tỉnh Lạng Sơn, có công dẹp bọn giặc phỉ phương Bắc. Khi giặc Pháp đánh chiếm Nam Kỳ, Phạm Chân đã chiến đấu ngoan cường bảo vệ thành Biên Hòa - Gia Định. Khi thất thủ, không cam chịu rơi vào tay giặc, ông tuẫn tiết giữ tấm lòng trung, được triều đình nhà Nguyễn đưa vào thờ ở Trung Nghĩa đường.Con cháu của dòng họ này đã lưu giữ trọn vẹn bản gia phả bằng chữ Hán Nôm cổ và trong các gia đình từ đời thứ nhất đến đời thứ 14.
 
=== Họ Phạm Thanh Bình ([[Thanh Liêm]], [[Hà Nam]]) ===
Cụ khởi tổ là [[Phạm Bá Thượng]] (đầu thế kỷ 18), có thể xuất thân từ các dòng họ Phạm miền biển (có thể là [[Thái Bình]], [[Thanh Hóa]]) [chưa tìm được nguồn dẫn]. Khởi nghiệp tại thôn Lợ, xã Tốt Khê, tổng Hòa Ngãi (nay là Tổ dân phố 3, Thị trấn Tân Thanh (trước năm 2020 là thôn Lã, xã Thanh Bình), huyện Thanh Liêm, Tỉnh Hà nam). Họ có 4 chi lớn, đến nay đã có đời thứ 10. Con cháu các đời sinh sống tập trung tại xã Thanh Bình (chủ yếu tại thôn Lã và thôn Đạt Hưng), một nhánh định cư tại nước Úc.
 
=='''''Nhân vật nổi bật'''''==
===Việt Nam===
====Thời Hùng Vương====
* [[Phạm Duy Minh]], Danh tướng thời [[Hùng Vương thứ I|Hùng Vương]] chống Thục.
====Nhà nước Lâm Ấp (Champa)====
* [[Phạm Hùng (Champa)]]: vua của triều vương thứ nhất (192-336) của nước [[Lâm Ấp]], trị vì 270 - 282. Ông bị tướng [[Đào Hoàng]] của nhà [[Tây Tấn]] đánh bại.<ref name="Higham, C. 2014">Higham, C., 2014, Early Mainland Southeast Asia, Bangkok: River Books Co., Ltd., {{ISBN|9786167339443}}</ref>
Hàng 191 ⟶ 60:
* [[Phạm Phật]]: con của Phạm Văn, trị vì từ 349 - 380.<ref name="Higham, C. 2014"/>
* [[Phạm Hồ Đạt]]: con của Phạm Phật, trị vì từ 380 - 413.<ref name="Higham, C. 2014"/>
* [[Phạm Tu Đạt]] và con cháu, trị vì [[lâm Ấp]] từ 413 đến 420.<ref name="Higham, C. 2014"/>
* [[Phạm Dương Mại I]] mở đầu triều vương thứ ba (420 - 530), trị vì 420 - 421.<ref name="Higham, C. 2014"/>
* [[Phạm Dương Mại II]]: trị vì 421 - 446, nhiều lần tiến quân đánh Nam - Bắc triều của Trung Quốc (nhà [[Lưu Tống]]).<ref name="Higham, C. 2014"/>
Hàng 198 ⟶ 66:
* [[Phạm Chư Nông]]: con của [[Phạm Thần Thành]], giết Phạm Đăng Căn Thăng, được vua [[Nam Tề Vũ Đế]] phong vương [[Lâm Ấp]] năm 492, trị vì từ 492 - 498 thì chết đuối vì gặp bão khi đang trên đường sang [[Nam Tề]].<ref name="Higham, C. 2014"/>
* [[Phạm Văn Tẩn]]: trị vì 498 - 502.<ref name="Higham, C. 2014"/>
* [[Phạm Thiên Khởi]]: trị vì 510 - 514.<ref name="Higham, C. 2014"/>
* [[Phạm Phạn Chi]]: trị vì từ 577 - 629. Năm 605, ông bị tướng [[Lưu Phương]] của [[nhà Tùy]] đánh bại, phải co cụm lên vùng rừng núi [[Trà Kiệu]] ([[Quảng Nam]]) ngày nay. Cuối thời kì của ông là thời kì ra đời của nhà nước [[Champa]].<ref name="Higham, C. 2014"/>
 
Hàng 212 ⟶ 79:
* [[Phạm Thị Trân]]: bà tổ nghề hát [[chèo]] [[Việt Nam]].
====Nhà Lý====
* Phạm Thị Ngà, thân mẫu vua [[Lý Công Uẩn]] <ref>[https://vov2.vov.vn/van-hoa-giai-tri/ly-trieu-thanh-mau-pham-thi-nga-than-mau-vua-ly-cong-uan-24757.vov2 Lý Triều Thánh Mẫu Phạm Thị Ngà - thân mẫu vua Lý Công Uẩn]</ref>
* [[Phạm Bỉnh Di]] (? - 1209): Tướng lĩnh thời [[Lý Cao Tông]], là một trung thần của triều đình. Sau khi bị gian thần [[Phạm Du]] giết tại điện Kinh Tinh cùng con trai Phạm Phụ, [[loạn Quách Bốc]] cũng nổ ra, cùng với sự nổi dậy của nhiều sứ quân khác, triều đình nhà Lý đã suy lại càng suy vong, tạo điều kiện thuận lợi cho thế lực [[nhà Trần]] do [[Trần Lý]] và con trai [[Trần Tự Khánh]] dẫn đầu bắt đầu quá trình tiếm quyền và xây dựng triều đại của mình 15 năm sau.
* [[Phạm Du]] (? - 1209): tướng lĩnh nhà Lý, là một gian thần, ưa thói xiểm nịnh, sau vì họa sắc dục đến nỗi mất mạng.
Hàng 229 ⟶ 95:
* [[Phạm Đốc]]: (1513-1558) tên thụy là Trung Nghi, ông là danh tướng thời Lê Trang Tông-Trịnh Kiểm. Quê ở Thổ sơn, Vĩnh Phúc, Thanh hóa (nay là thôn Thổ phụ, xã Vĩnh tiến, huyện Vĩnh lộc, tỉnh Thanh hóa). Ông làm quan tới chức Thái phó, tước Đức quận công. Khi mất ông được truy tặng Thái úy, tước Đức Quốc
* [[Phạm Huy]]: (1470 - ?) là một tiến sĩ dưới thời vua Lê Thánh Tông, từng làm đến chức Công Bộ đô cấp.
*[[Phạm Hưng Văn]]: ông là Tiến sỹ quê làng Động Hối, huyện Thanh Lan, phủ Tân Hưng (nay là thôn Đồng Lang, xã Đông Vinh, huyện [[Đông Hưng]]). Ông thi Đỗ Hoàng giáp khoa Ất Mùi niên hiệu Hồng Đức năm thứ 6 (1475) đời vua [[Lê Thánh Tông]]; khoa thi này là Đệ Nhất giáp cập đệ chỉ có một người, sau đến đệ Nhị giáp là ông. Sau khi thi đỗ, ông được bổ nhiệm vào Hàn lâm, thăng dần đến Đô ngự sử. Năm Đinh Tỵ (1497), được cử dẫn đầu đoàn sứ bộ Đại Việt sang nhà Mình (Trung Quốc). Khi trở về, ông cùng đi với hai đoàn sứ bộ nhà Minh, một đoàn sang viếng tang vua Lê Thánh Tông, một đoàn sang phong vương cho vua Lê Hiếu Tông. Phạm Văn Hưng cùng trao đổi xướng họa thơ văn với các nhân sĩ, trí thức Trung Quốc, được họ hết lời khen ngợi. Đi sứ về ông bị bệnh qua đời, chuyện ông bị chết sau khi đi sứ về có nhiều lời đồn đại, có người cho rằng "ông bị hại", thực hư chưa rõ, nhưng ông được vua Lê Hiến Tông truy phong Thượng thư Bộ hình, được làm phúc thần của làng.
[[Tập tin:Phạm Phú Thứ.jpg|nhỏ|[[Phạm Phú Thứ]]]]
*[[Phạm Trấn|Phạm Trấn (1523-?)]]: người xã Lâm Kiều, huyện Gia Phúc, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay là thôn Lâm Cầu, xã Phạm Trấn, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương). Ông đỗ đệ nhất giáp đồng tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (trạng nguyên), khoa Bính Thìn niên hiệu Quang Bảo thứ 2 (1556) đời Mạc Tuyên Tông (Mạc Phúc Nguyên). Ông làm quan cho nhà Mạc, đến khi nhà Mạc mất cự tuyệt không ra làm quan cho nhà Lê nên bị ám hại.
*[[ cụ Phạm Đình Chân (1514-.?)]]: sinh tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh giữ chức Đô Úy trông coi việc quân vùng Trấn Sơn Nam (gồm các tỉnh Hà Nam, Nam Đinh, Thái Bình và Ninh Bình ngày nay)thời vua Lê Anh Tông. Sau khi từ quan cụ về xã Yên Đồng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình và ở lại đây và trở thành cụ Tổ dòng họ Phạm Đình tại xã Yên Đồng. Nhà thờ cụ được Công nhận di tích lịch sử cấp tỉnh (tỉnh Ninh Bình).
* [[Phạm Trấn|Phạm Trấn (1523-?)]]: người xã Lâm Kiều, huyện Gia Phúc, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay là thôn Lâm Cầu, xã Phạm Trấn, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương). Ông đỗ đệ nhất giáp đồng tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (trạng nguyên), khoa Bính Thìn niên hiệu Quang Bảo thứ 2 (1556) đời Mạc Tuyên Tông (Mạc Phúc Nguyên). Ông làm quan cho nhà Mạc, đến khi nhà Mạc mất cự tuyệt không ra làm quan cho nhà Lê nên bị ám hại.
* [[Phạm Duy Quyết]] (1521-?.chữ Hán: 范維玦), người làng Xác Khê, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, Hải Dương. Đỗ trạng nguyên năm 42 tuổi khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Thuần Phúc thứ nhất (1562), đời Mạc Phúc Nguyên. Làm quan đến Tả thị lang bộ lại kiêm Đông các Đại học sĩ, tước Xác Khê Hầu.
* Phạm Tri Chỉ Người làng Áng Ngoại - Xã trung Lập - Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng. Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn niên hiệu Thuần Phúc 4 (1568) đời Mạc Mậu Hợp. Trước làm quan triều Mạc, sau làm quan nhà Lê đến chức Thị lang.
* [[Liễu Hạnh công chúa|Phạm Tiên Nga]]: tên thật của [[Liễu Hạnh công chúa]].
* [[Phạm Thị Ngọc Hậu]]: Đoan Thuần Hoàng thái hậu, vợ vua [[Lê Thần Tông]], thân mẫu của vua [[Lê Huyền Tông]].<ref>[https://eva.vn/eva-tam/ngoi-dat-tot-va-giac-mong-ky-la-sinh-dan-den-ba-hoang-hau-cua-vua-le-than-tong-c66a342353.html Ngôi đất tốt và giấc mộng kỳ lạ sinh dẫn đến bà hoàng hậu của vua Lê Thần Tông]</ref>
* [[Phạm Nhật Minh]]: tể tướng thời [[Nhà Lê sơ|Hậu Lê]].
* [[Phạm Đình Hổ]]: nhà văn, nhà thơ thời [[Nhà Lê sơ|Hậu Lê]]
* [[Phạm Nguyễn Du]]: nhà thơ thời [[Nhà Lê sơ|Hậu Lê]].
Hàng 262 ⟶ 123:
* [[Phạm Viết Chánh]]: danh sĩ và là Án sát tỉnh [[An Giang]] triều vua [[Tự Đức]], [[nhà Nguyễn]].
* [[Phạm Phú Thứ]]: đại thần [[nhà Nguyễn]].
*Phạm Hoàn: Làm quan Thượng Thư triều Nguyễn thời vua Khải Định. Về hưu thăng Hiệp Biện Đại Học Sỹ. Có lịnh ái bà Diệm Tân là đệ tam phu nhân vua Khải Định. [http://baochi.nlv.gov.vn/baochi?a=d&d=HtCq19321222.2.21]
*[[Phạm Bá Phổ]] cháu họ ông [[Phạm Hoàn]], làm quan Án Sát Quảng Ngãi, Tham Tri Bộ Hình, Tổng Đốc An Tĩnh, về hưu được phong Thượng Thư Bộ Lễ. Là người giúp cho Bạch Liên nữ sĩ trong [[Gia đình Hồ Chí Minh|Gia đình Bác Hồ]] thoát khỏi tù án khổ sai 9 năm ở Quảng Ngãi và ông tìm cách để bà được tự do 2 năm sau.
*Phạm Bá Nguyên, con trai ông [[Phạm Bá Phổ]] là nhà báo thế hệ đầu tiên ở Huế. Là người thầy, người ảnh hưởng nhất đến nhà nghiên cứu Huế [[Nguyễn Đắc Xuân]]. [http://www.vietcoder.vn/doi-lam-bao/] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20190822043002/http://vietcoder.vn/doi-lam-bao/ |date=2019-08-22 }}
* [[Phạm Hữu Nhật]]: thủy quân chánh đội trưởng suất đội [[Hoàng Sa]] [[nhà Nguyễn|triều Nguyễn]].
* [[Phạm Hữu Tâm]]: danh tướng của [[nhà Nguyễn]], [[Việt Nam]].
Hàng 313 ⟶ 171:
* [[Phạm Quốc Trung]]: Trung tướng, Phó Giáo sư, Hiệu trưởng Trường Đại học Chính trị Bộ Quốc phòng.
* [[Phạm Xuân Thuyết]]: là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Ông từng giữ các chức vụ: Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9, Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân đoàn 4.
 
[[Tập tin:Vien si Tran Dai Nghia.jpg|nhỏ|Giáo sư [[Trần Đại Nghĩa]] (Phạm Quang Lễ)]]
* [[Phạm Vũ Luận]]''': ''' Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI (2011-2016), Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII (nhiệm kỳ 2011-2016),&nbsp;[[Bộ trưởng]]&nbsp;[[Bộ Giáo dục và Đào tạo (Việt Nam)|Bộ Giáo dục và Đào tạo]] (2010-2016).
*[[Phạm Thị Hải Chuyền]]: Ủy viên BCH Trung uong khóa X,XI; Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2011-2016).
Hàng 324 ⟶ 182:
* '''Phạm [[Ngọc Sơn (ca sĩ)|Ngọc Sơn]]''' Danh [[ca nhạc sĩ]] [[Ngọc Sơn (ca sĩ)|Ngọc Sơn]], ca nhạc sĩ đương đại với nhiều nhạc phẩm tiêu biểu về Tình yêu, Tình Quê hương, Đất nước.
* '''[[Phạm Hồng Phước]]''', nam ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên điện ảnh người [[Việt Nam]].
* '''[[Phạm Quang Lịch]]''' (1924 - 2010), tức thi sỹ [[Trần Đồng Vọng]], là một nhà Văn, nhà Thơ, họa sỹ thế kỷ XX, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (thập niên 1960 - 1970), Việt Nam Cộng hòa.
* '''[[Phạm Công Thiện]]''' (1941-2011) là một thi sĩ, nhà văn, [[triết gia]], học giả, và cư sĩ [[Phật giáo]] người [[Việt Nam]] với pháp danh '''Nguyên Tánh'''. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của [[Sài Gòn]] thập niên 1960 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Bút danh khác: Hoàng Thu Uyên.
* [[Hòa thượng]] '''Thích Tuệ Sỹ''' tục danh '''Phạm Văn Thương''' sinh ngày [[15 tháng 2]] năm [[1943]] tại [[Pakxe|Paksé]], [[Lào]], ông quê tại [[Quảng Bình]], [[Việt Nam]], là một học giả uyên bác về [[Phật giáo]], nguyên [[giáo sư]] thực thụ của [[Đại học Vạn Hạnh]] tại [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]], [[nhà văn]], [[nhà thơ]], [[Dịch thuật|dịch giả]] và là một [[người bất đồng chính kiến]] với [[Chính phủ Việt Nam]]. Ông hiện là Đệ nhất phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo của [[Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất]] (GHPGVNTN).
Hàng 336 ⟶ 193:
* [[Phạm Đình Chương]]: nhạc sĩ nổi tiếng.
* [[Phạm Thế Mỹ]]: nhạc sĩ, nhà cách mạng nổi tiếng.
* [[Phạm Ngọc Tính]]: là một bộ đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965 - 1975) và đạt huy chương kháng chiến hạng nhất.
* [[Phạm Ngọc Minh]]: (sinh năm 1959) là một sĩ quan cấp cao trong [[Quân đội nhân dân Việt Nam]], hàm [[Thượng tướng]]. Ông nguyên là [[Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam]] ([[2013]]-[[2019]]).
* [[Phạm Tăng]]: Họa sĩ với bức tranh"Vũ trụ", đã được giải thưởng của UNESCO.
Hàng 381 ⟶ 237:
* [[Phạm Thị Hương]] - [[Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2015]], đại diện Việt Nam tham dự [[Hoa hậu Hoàn vũ 2015]]
* [[Phạm Hồng Thúy Vân]] - Á khôi 1 [[Hoa khôi Áo dài Việt Nam 2014]], Á hậu 3 [[Hoa hậu Quốc tế 2015]], Á hậu 2 [[Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2019]]
* Phạm Ngọc Phương Linh - Á khôi 2 [[Hoa khôi Áo dài Việt Nam 2016]], đại diện Việt Nam tham dự [[Hoa hậu Quốc tế 2016]]
* [[Jennifer Phạm]] (Phạm Vũ Phượng Hoàng) - Hoa hậu châu Á tại Mỹ 2006
* [[Phạm Thị Mai Phương]] - [[Hoa hậu Việt Nam|Hoa hậu Việt Nam 2002]], đại diện Việt Nam tham dự [[Hoa hậu Thế giới 2002]]
Hàng 393 ⟶ 248:
* [[Phạm Thư]], mưu sĩ thời [[Chiến Quốc]] của nước [[Tần]], giúp Tần thêm hùng mạnh, đặt nền móng để sau này [[Tần Thủy Hoàng]] thống nhất [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]]
* [[Phạm Tăng]], mưu sĩ của [[Hạng Vũ]] thời [[Chiến tranh Hán-Sở|Hán Sở tranh hùng]]
* [[Phạm Chẩn]]: nhân sĩ [[nhà Lương]] thời [[Nam Bắc triều]].
* [[Phạm Diệp]]: nhà chính trị, sử học, nhà văn thời [[Lưu Tống]] của [[Nam Triều]], tác giả bộ [[Hậu Hán thư]].
* [[Phạm Trọng Yêm]], Thừa tướng, nhà cải cách thời [[nhà Tống]].
* [[Phạm Thành Đại]] (1126 - 1193): nhà địa lý thời [[Tống]].
* [[Phạm Văn Trình]], đại thần, khai quốc công thần [[nhà Thanh]]
* [[Phạm Hán Kiệt]], Thiếu tướng quân đội [[Trung Quốc Quốc Dân Đảng|Quốc Dân Đảng Trung Quốc]]