Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Blackpink”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Đã bị lùi lại Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao
Dòng 76:
}}
 
Blackpink được lên kế hoạch thành lập khi [[YG Entertainment]] tổ chức các buổi tuyển chọn những tân binh thuộc lứa tuổi vị thành niên và thanh thiếu niên trên toàn thế giới để thành lập một nhóm nhạc nữ mới sau khi nhóm nhạc nữ đầu tiên, [[2NE1]], ra mắt hồi năm 2009.{{sfn|Besley|2019|p=11}}<ref>{{chú thích web|họ=Glasby|first1=Taylor|title=How Blackpink became the biggest K-pop girl band in the world|url=https://www.vogue.fr/fashion/article/how-blackpink-became-the-biggest-k-pop-girl-band-in-the-world|website=Vogue Paris|access-date = ngày 11 tháng 11 năm 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20201111041217/https://www.vogue.fr/fashion/article/how-blackpink-became-the-biggest-k-pop-girl-band-in-the-world|ngày lưu trữ=2020-11-11|language=en|date = ngày 31 tháng 8 năm 2020}}</ref> Theo các thành viên, việc tham gia YG với tư cách thực tập sinh tương tự như việc ghi danh vào một học viện ngôi sao nhạc pop làm việc cả ngày. Jennie cho rằng nó "nghiêm ngặt hơn cả trường học" trong khi Rosé so sánh cuộc sống tại YG như ''[[The X Factor]]'' với phòng ký túc xá.<ref name="bbcover">{{chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/news/cover-story/8500312/blackpink-billboard-cover-story-2019|title=Inside Blackpink's U.S. Takeover: How the K-Pop Queens Are Changing the Game|họ=Feeney|first=Nolan|date=28 tháng 2 năm 2019|website=[[Billboard]]|language=en|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201108213447/https://www.billboard.com/articles/news/cover-story/8500312/blackpink-billboard-cover-story-2019|ngày lưu trữ=8 tháng 11 năm 2020|access-date = ngày 8 tháng 11 năm 2020}}</ref> Đối với những thành viên phải bỏ lại cuộc sống ở nước ngoài để tới Hàn Quốc, họ đối mặt với vô vàn gian nan khi phải thích nghi với nhịp độ luyện tập cùng với những cú sốc văn hóa.<ref>{{chú thích web|url=https://www.marieclaire.com/culture/a34359777/blackpink-members/|title=The Intimate Backstory of How Each BLACKPINK Member Became a Star|họ=Liao|first1=Marina|date = ngày 14 tháng 10 năm 2020 |website=Marie Claire|language=en|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201018025504/https://www.marieclaire.com/culture/a34359777/blackpink-members/|ngày lưu trữ=18 tháng 10 năm 2020|access-date = ngày 9 tháng 11 năm 2020}}</ref> Công tác chuẩn bị cho Blackpink ra mắt bắt đầu từ năm 2011 khi YG Entertainment tiết lộ vào ngày 14 tháng 11 năm 2011 rằng nhóm nhạc nữ mới của công ty sẽ ra mắt vào nửa đầu năm 2012 với từ năm đến bảy thành viên.{{sfn|Besley|2019|p=12}}<ref>{{chú thích web|url=http://world.kbs.co.kr/english/program/program_musicnews_frame.htm?No=16752&current_page=165|title=Super Star K2's Kim Eun-bi To Debut As YG Entertainment Group|date=11 tháng 11 năm 2011|website=[[KBS World]]|language=en|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201021085231/http://world.kbs.co.kr/english/program/program_musicnews_frame.htm?No=16752&current_page=165|ngày lưu trữ=21 tháng 10 năm 2020|access-date = ngày 8 tháng 11 năm 2020}}</ref> Kể từ đó, có rất nhiều những tin tức và lời đồn xung quanh về nhóm nhạc nữ mới nhưng việc ra mắt của họ bị trì hoãn mà không có thông tin nào chính thức.<ref>{{chú thích web|url=http://www.koreaherald.com/view.php?ud=20120903001229|title=G-Dragon turns producer for YG's new girl group|date=3 tháng 9 năm 2012|website=[[The Korea Herald]]|language=en|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20200712063040/http://www.koreaherald.com/view.php?ud=20120903001229|ngày lưu trữ=12 tháng 7 năm 2020|access-date = ngày 8 tháng 11 năm 2020}}</ref><ref>{{chú thích web|url=https://www.popdust.com/yg-entertainment-delays-new-girl-group-debut-yet-again-1889635348.html|title=YG Entertainment Delays New Girl Group Debut Yet Again|date=26 tháng 2 năm 2013|website=Popdust|language=en|url lưu trữ=https://archive.today/20201128214432/https://www.popdust.com/the-mandalorian-2648999416.html|ngày lưu trữ=2020-11-28|access-date=ngày 28 tháng 11 năm 2020}}</ref> Mãi đến ngày 18 tháng 5 năm 2016, YG Entertainment mới chính thức xác nhận việc đang chuẩn bị ra mắt nhóm nhạc nữ mới vào tháng 7.<ref>{{chú thích web|title=YG Entertainment reveals first member of the new girl group|url=https://www.sbs.com.au/popasia/blog/2016/05/18/yg-entertainment-reveals-first-member-new-girl-group|website=SBS PopAsia|access-date = ngày 28 tháng 11 năm 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20201128214806/https://www.sbs.com.au/popasia/blog/2016/05/18/yg-entertainment-reveals-first-member-new-girl-group|archive-date = ngày 28 tháng 11 năm 2020 |language=en|date = ngày 18 tháng 5 năm 2016}}</ref> Một đại diện của YG đã nói rằng các thành viên đã được lựa chọn thông qua nhiều năm cạnh tranh gay gắt và các kỹ năng của họ đã được công nhận sau khi trải qua một thời gian dài luyện tập.<ref>{{chú thích web|url=https://entertain.naver.com/read?oid=109&aid=0003320557|title=[단독]2NE1 데뷔 후 7년, YG 걸그룹 자매의 탄생|date=18 tháng 5 năm 2016|website=Naver|publisher=Osen|language=ko|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201031142249/https://entertain.naver.com/read?oid=109&aid=0003320557|ngày lưu trữ=31 tháng 10 năm 2020|access-date = ngày 8 tháng 11 năm 2020}}</ref> YG sau đó cũng xác nhận rằng những người trước đó được giới thiệu với công chúng như những thành viên tiềm năng của nhóm nhạc nữ mới là Jang Hanna (thí sinh của ''[[K-pop Star (chương trình truyền hình)|Kpop Star]]'' mùa 3) và Moon Sua (thí sinh của ''[[:ko:언프리티 랩스타|Unpretty Rapstar]]'' mùa 2) đã không có tên trong đội hình ra mắt.<ref>{{chú thích web|url=https://entertain.v.daum.net/v/20160519114704566|title=[단독] YG 신인 걸그룹..'1순위'라던 장한나 없다 '확인'|date=19 tháng 5 năm 2016|website=Daum|publisher=Ilgan Sports|language=ko|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201029191316/https://entertain.v.daum.net/v/20160519114704566|ngày lưu trữ=29 tháng 10 năm 2020|access-date=1 tháng 8 năm 2020}}</ref><ref>{{chú thích web|url=https://entertain.v.daum.net/v/20160520093438960|title='언프리티' 문수아도 YG 新걸그룹 NO "새 인물多"|date=20 tháng 5 năm 2016|website=Daum|publisher=Star News|language=ko|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201108181308/https://entertain.v.daum.net/v/20160520093438960|ngày lưu trữ=8 tháng 11 năm 2020|access-date = ngày 8 tháng 11 năm 2020}}</ref>
 
Thành viên đầu tiên của nhóm được tiết lộ là Jennie vào ngày 1 tháng 6.<ref>{{chú thích web|url=http://osen.mt.co.kr/article/G1110426941|title=YG 걸그룹, 첫 멤버 제니 공개..실력+비주얼 다 갖췄다|date=1 tháng 6 năm 2016|website=Osen|language=ko|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201109052843/http://osen.mt.co.kr/article/G1110426941|ngày lưu trữ=9 tháng 11 năm 2020|access-date = ngày 8 tháng 11 năm 2020}}</ref> Cô gia nhập YG Entertainment với tư cách là thực tập sinh vào năm 2010 sau khi trở về Hàn Quốc từ New Zealand.<ref name="trainee">{{Chú thích báo|url=https://entertain.naver.com/read?oid=052&aid=0001163639|title=[Y기획②]멤버를 알면 '진짜' 블랙핑크가 보인다|last=|first=Seung-hoon|date=7 tháng 7 năm 2018|work=YTN|access-date = ngày 8 tháng 11 năm 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20201109024948/https://entertain.naver.com/read?oid=052&aid=0001163639|archive-date=9 tháng 11 năm 2020|language=ko|họ=Ji}}</ref> Năm 2012, cô lần đầu tiên được giới thiệu với công chúng qua bộ ảnh mang tên "Who's that girl?" được đăng tải lên blog chính thức của YG Entertainment vào ngày 10 tháng 4.{{sfn|Besley|2019|p=12–13}}<ref>{{chú thích web|url=https://entertain.naver.com/read?oid=014&aid=0002628723|title=YG 미스테리걸 등장, 눈에 띄는 미모 新걸그룹 멤버(?)|date=20 tháng 4 năm 2012|work=Financial News|publisher=Naver|language=ko|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201109025016/https://entertain.naver.com/read?oid=014&aid=0002628723|ngày lưu trữ=9 tháng 11 năm 2020|access-date = ngày 9 tháng 11 năm 2020}}</ref> Jennie liên tục được quảng bá với tư cách là thành viên của nhóm nhạc nữ mới qua những lần hợp tác với những nghệ sĩ khác cùng công ty. Cô từng đảm nhận vai chính trong video âm nhạc "That XX" năm 2012 từ EP ''[[One of a Kind (EP)|One of a Kind]]'' của [[G-Dragon]] và từng góp giọng trong ca khúc "Black" từ album ''[[Coup d'Etat (album của G-Dragon)|Coup d'etat]]'' của G-Dragon và trong "Special" từ album ''First Love'' của [[Lee Hi]] năm 2013.<ref>{{chú thích web|url=http://star.mt.co.kr/stview.php?no=2012082915564047813|title=YG새걸그룹' 김제니, GD 뮤비 여주인공 전격발탁|date=29 tháng 8 năm 2012|website=Star News|language=ko|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201109023036/http://star.mt.co.kr/stview.php?no=2012082915564047813|ngày lưu trữ=6 tháng 8 năm 2020|access-date = ngày 8 tháng 11 năm 2020}}</ref><ref>{{chú thích web|url=https://www.complex.com/music/2013/09/g-dragon-coup-detat-making-of/black-jennie-kim|title=The Making of G-Dragon's "Coup D'Etat" "Black" feat. Jennie Kim|website=Complex|language=en|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201109023020/https://www.complex.com/music/2013/09/g-dragon-coup-detat-making-of/black-jennie-kim|ngày lưu trữ=11 tháng 11 năm 2020|access-date = ngày 8 tháng 11 năm 2020}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.edaily.co.kr/news/Read?newsId=01167686602740040&mediaCodeNo=258|title=YG 새 걸그룹 김제니, 이하이 첫 솔로앨범 참여 '눈길'|date=4 tháng 3 năm 2013|website=EDaily|language=ko|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20200609034816/https://www.edaily.co.kr/news/Read?newsId=01167686602740040&mediaCodeNo=258|ngày lưu trữ=30 tháng 10 năm 2020|access-date = ngày 8 tháng 11 năm 2020}}</ref>