In the Zonealbum phòng thu thứ tư của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Britney Spears, phát hành ngày 12 tháng 11 năm 2003 bởi Jive Records. Đây là album đầu tiên của Spears không có sự xuất hiện của nhà sản xuất lâu năm Max Martin mà có sự tham gia của nhiều nhà sản xuất mới như Bloodshy & Avant, R. KellyChristopher Stewart. Kết quả album là ra đời một In the Zone đa dạng từ thể loại như dance, house, trip hop, hip hop cùng những nhạc cụ của âm nhạc Trung Đông cũng như đa dạng trong chủ đề như tình yêu, tình dục, nhảy múa và khẳng định sức mạnh bản thân. Nó cũng đánh dấu sự thành công trong vai trò viết nhạc của Spears khi cô tham gia đồng viết lời cho tám bài hát trong album, thành công nhất trong đó phải kể đến hai bản hit "Toxic" và "Everytime". Đây cũng là album đầu tiên cô song ca với biểu tượng nhạc pop Madonna.

In the Zone
Album phòng thu của Britney Spears
Phát hành12 tháng 11 năm 2003 (2003-11-12)
Thu âmTháng 5 – Tháng 8, 2003
Thể loại
Thời lượng50:00
Hãng đĩaJive
Sản xuất
Thứ tự album của Britney Spears
Britney
(2001)
In the Zone
(2003)
Greatest Hits: My Prerogative
(2004)
Đĩa đơn từ In the Zone
  1. "Me Against the Music"
    Phát hành: 20 tháng 10 năm 2003 (2003-10-20)
  2. "Toxic"
    Phát hành: 12 tháng 1 năm 2004 (2004-01-12)
  3. "Everytime"
    Phát hành: 17 tháng 5 năm 2004 (2004-05-17)
  4. "Outrageous"
    Phát hành: 13 tháng 7 năm 2004 (2004-07-13)

Sau khi ra mắt, In the Zone được các chuyên gia đánh giá hết sức tích cực, nhiều người gọi đó là một album đầy mạnh mẽ những như đầy chất lượng của nhạc pop, cũng như đánh giá cao sự đa dạng thể loại trong album và khả năng tự sáng tác bấy lâu nay bị nghi ngờ của Spears. Tuy nhiên một số chuyên gia cho rằng giọng hát trong album bị xử lý hơi quá tay. Về mặt thương mại, đây tiếp tục là album thành công nữa nữ ca sĩ khi tiến thẳng lên vị trí quán quân của Pháp, Đức, Canada và Hoa Kỳ và lọt vào top 10 album của nhiều quốc gia khác. Tại Hoa Kỳ, với thành tích này, Spears trở thành nghệ sĩ nữ đầu tiên có 4 album đầu tay liên tiếp đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard 200. Mặc dù phát hành cuối năm 2003, nhưng In the Zone vẫn là album bán chạy thứ 8 năm 2003 ở Hoa Kỳ và tính đến 2011, album đã bán được 10 triệu bản trên toàn thế giới.

Khác hẳn với album trước, các đĩa dơn trích từ In the Zone đều thành công vang dội trên toàn thế giới. Ba đĩa đơn đầu tiên là "Me Against the Music", "Toxic" và "Everytime" đều đứng đầu tại nhiều quốc gia cũng như bảng xếp hạng của thế giới trong nhiều tuần liền. Những video ca nhạc của nó đều được đánh giá cao và cả giới chuyên môn cũng như fan hâm mộ cho rằng đây là sự trưởng thành hết sức thành công của Spears từ hình tượng ngôi sao tuổi teen sang một người phụ nữ trưởng thành. In the Zone cũng giúp cô giành được giải Grammy đầu tiên trong sự nghiệp cho Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất với đĩa đơn "Toxic" tại lễ trao giải thường niên lần thứ 47. Năm 2009, Amy Schriefer của tạp chí NPR đã đưa album vào danh sách "50 bản thu âm quan trọng nhất của thập kỷ" và gọi nó là "thứ âm thanh hiện đại của nền nhạc pop những năm 2000". Nó cùng với album tiếp theo của Spears là Blackout (2007) được coi là hai album chất lượng nhất trong sự nghiệp của cô cũng như hai trong số những album chất lượng của nền nhạc pop thế giới trong thập niên đầu của thế kỷ 21.

Quá trình thu âm album sửa

Tháng 11 năm 2001, Britney phát hành album thứ ba của mình là Britney với single mở màn là "I'm a Slave 4 U" mang đến một diện mạo Britney trưởng thành và sexy hơn..[1][2] Britney phát hành album cùng với chiến dịch quảng cáo là tour diễn Dream Within a Dream Tour kéo dài cho đến tháng 7 năm 2002. Sau tour diễn, Britney hết sức mệt mỏi, cộng thêm việc kết thúc mối quan hệ với Justin Timberlake cũng vào đầu năm đó;[3] cô đã quyết định nghỉ ngơi một vài tháng trước khi trở lại phòng thu cho album tiếp theo.

Quá trình thu âm album thứ 4 bắt đầu vào tháng 11 năm 2002, Britney chia sẻ "Tôi thực sự muốn nghỉ ngơi một vài tuần nhưng có vẻ cả thế giới đang chú ý đến tôi bảo rằng tôi đã biến mất…Oh my god! Vì thế tôi muốn bắt đầu công việc sớm hơn bao giờ hết"[1][4]. Britney cũng tham gia sáng tác một vài ca khúc cho album này từ trong tour diễn "Dream Within a Dream Tour". Cô tâm sự "Điều duy nhất làm tôi lo lắng là tôi không biết liệu những sáng tác của mình có hay không. Thế nhưng trong quá trình viết bạn không nên nghe theo bất cứ ai mà hãy cứ đi theo cảm xúc của mình."[1] Kết thúc tour diễn, Britney mời bạn bè và nhạc sĩ Annet Artani về nhà để sáng tác trên piano. Trong số những ca khúc mà họ làm việc có "Everytime", ca khúc mà Artani khẳng định đó là bài hát trà lời cho "Cry Me a River" của Justin Timberlake và một ca khúc nữa là "Shine" mà Britney viết về em gái của cô là Jamie Lynn, nhưng sau đó bị bỏ dở.[5]. Sau khi hoàn thành thu âm "Everytime", Britney hết sức khen ngợi nhà sản xuất Guy Sigsworth và nói rằng "Tôi biết có nhiều nhà sản xuất khi làm việc họ không thể đáp ứng những yêu cầu mà bạn đưa ra. Thế nhưng Sigsworth thật thú vị, tôi chỉ cần bảo anh ấy tôi muốn bài hát nó nghe như thế nào là anh ấy có thể làm cho nó như thế. "

Những bản thu âm sớm nhất của album bắt đầu từ đầu năm 2003, trong đó có "Touch of My Hand". Britney tâm sự rằng mặc dù cô vẫn chưa biết định hướng cho album lần này nhưng vẫn sẽ cố gắng làm việc với các nhà sản xuất và tìm ra những người mà cô ấy thực sự thích thú khi làm việc. Trong album lần này, Britney đã làm việc với nhiều nhà sản xuất tạo hit như Bloodshy & Avant, R. Kelly, Diddy, Christopher Stewart (nhà sản xuất)|Christopher Stewart, Moby, Guy Sigsworth, RedZoneThe Matrix.

Tháng 3 năm 2003, Lauren Christy từ The Matrix nói với MTV về việc họ rất thích thú khi làm việc cùng với Britney. Scott Spock, thành viên còn lại của The Matrix so sánh Britney với Madonn rằng: "Đây tiếp tục là bước tiến nữa của Britney trong sự nghiệp của cô ấy. Madonna lấy cảm hứng sáng tác từ các club và làm cho các bài hát của mình trở nên phổ biến hơn khi sử dụng những giai điệu đó. Tôi nghĩ Britney cũng đang làm công việc như vậy thay vì sử dụng những chất liệu thông thường và thực sự là điều đó rất phù hợp với Britney. [...] Tôi không nghĩ các fan của Britney sẽ sợ hãi hay buồn lòng về sản phẩm này, chắc chắn họ sẽ phát cuồng vì nó!"[6]

Britney cũng cho Quddus Philippe của MTV nghe qua một vài ca khúc của album mới trong cuộc phỏng vấn vào tháng 5 năm 2003, gồm một số bài như "Touch of My Hand", "Brave New Girl" và "Everytime" và nói rằng "Tôi cảm thấy mình thực sự đã điều khiển được thời gian và năng lực sáng tác của mình; và tôi đang cố gắng làm album này trở nên đặc biệt hơn bao giờ hết."[7]

Christy, thành viên của The Matrix nói "Britney biết những gì mình muốn ở bài hát, đặc biệt về phần lời, và nếu cô ấy thấy không phù hợp sẽ trả lại luôn. Cô ấy không phải là kiểu người chấp nhận tất cả mọi thứ, đặc biệt là những thứ không thật với bản thân." Christy cũng cho biết là anh rất ấn tượng với giọng hát của Britney khi thu âm "Shadow".

Christopher Stewart và Penelope Magnet, bộ đôi biết đến với tên gọi RedZone đã đưa Britney cho ca khúc "Pop Culture Whore", quản lý của Britney rất thích nhưng cô ấy lại từ chối nó và bảo rằng "tệ". Thế rồi họ phải mất một ngày ở New York để có thể hiểu được những suy nghĩ của cô ấy cũng như định hướng sáng tác cho mình. Sau đó Stewart và Magnet bắt đầu sáng tác "Me Against the Music": Stewart thì nghĩ ra giai điệu, còn Magnet thì viết nó trên nền piano và lời bài hát.[8] Trong quá trình thu âm, Stewart nhắc lại việc chiếc điều hòa bị hỏng trong 3 ngày, nhưng Britney không hề phàn nàn.[9]. Khi diễn tập cho màn biểu diễn tại MTV VMA 2003, Britney đã bật đoạn cuối của "Me Against the Music" cho Madonna nghe. Sau đó, Madonna đã rất thích ca khúc và Britney bày tỏ ý muốn được thu âm lại ca khúc này với cô ấy.[10]. Sau đó RedZone đã đưa ca khúc cho Madonna và thu âm giọng của cô ấy đè lên một số phần của bản gốc. Britney, fan trung thành của Madonna từ lâu, cảm thấy rất thích thú vì được duet cùng cô ấy cũng như sự quan tâm của Madonna: "Tôi chỉ nhờ Maddie làm công việc chút xíu nhưng cô ấy thực sự làm nhiều thứ và cực kỳ nghiêm túc trong bản thu âm này." Tính ra trong cả album, RedZone đã đồng sáng tác "Early Mornin'", thu âm giọng nền cho "Outrageous" và sản xuất "The Hook Up".

Trước khi album này được phát hành, quản lý của Britney là Larry Rudolph nói rằng: "Đây là album quan trọng để Britney thoát khỏi âm hưởng teen-pop quen thuộc và 2 bài hát từ album trước đó là "I'm a Slave 4 U" và "Boys" sẽ là khởi hành cho album mới này của Britney". Barry Weiss, sau này là giám đốc của Jive cũng nói thêm "Thực sự Britney đã làm được điều mình cẩn, một album trưởng thành và không hề giống với Britney của 4 năm trước nhưng vẫn là một album thành công với nhiều ca khúc hit". In the Zone đã được thu âm ở nhiều nơi như Battery Studios và The Dojo tại New York; 3:20 Studios, Decoy Studios, Pacifique Studios, Record PlantWestlake Audio tại Los Angeles, California; The Chocolate Factory tại Chicago; Triangle Sond Studios ở Atlanta; Metrophonic Studios và Olympic Studios ở London, Anh và Murlyn Studios ở Stockholm, Thụy Điển. Trong suốt đầu năm 2003, Britney cũng chơi thử một vài ca khúc trong album tại các câu lạc bộ đêm ở New York.

Các bài hát trong album sửa

Theo như Billboard, In the Zone đánh dấu một bước chuyển biến mới trong âm nhạc của Britney: thay vì những giai điệu quen thuộc, album trở nên tối màu và mang màu sắc dance hơn. Britney cũng chia sẻ với tạp chí này rằng: "Tôi thấy album này của mình là một sản phẩm mang đầy cảm giác mê hoặc - điều bạn chỉ có thể nghe và cảm nhận chứ không thể xét qua cấu trúc bài. Và tất nhiên tôi không làm một '...Baby One More Time' hay những hit lớn riêng lẻ lớn nữa. Tôi nghĩ album này chính là nơi mà tôi đang ở trong thế giới này: nó rất khêu gợi và đầy nhục dục."[11] Cũng theo như Amy Schriefer của NPR phát biểu rằng album là một sự kết hợp của đa dạng thể loại từ dance, house, crunk, beat của Diwali cũng như hip hop.[12] Còn theo William Shaw của Blender thì chủ đề chính của In the Zone là sự thức tỉnh của Britney về con người mình - một người phụ nữ trưởng thành! [1]

Ca khúc cũng như single đầu tiên từ album là "Me Against the Music". Ban đầu ca khúc được dành riêng cho Britney nhưng sau màn trình diễn tại MTV VMA 2003, Madonna đã nhận lời hát cùng Britney trong ca khúc này. Ca khúc mang âm hưởng của hip hop và ghita funk, Britney và Madonna vừa hát vừa rap trên toàn bộ bài nhạc. Lời bài hát nói về sự thỏa mãn của con người khi được thả mình trên sàn nhảy: "I'm up against the speaker / Trying to take on the music / It's like a competition".[9] Giới chuyên môn đánh giá cao ca khúc này cũng như coi đây là bản song ca chất lượng nhất của Britney từ trước đến giờ. Sau này, một cụm từ trong bài hát là "in the zone" đã được Britney sử dụng để làm tên cho album và mang nhiều ý nghĩa: "in the zone" ở đây được ngầm hiểu là "In the Britney Zone", khi bạn nghe album này bạn sẽ đi vào khu vực/thế giới riêng của Britney; bìa album cũng được đánh giá cao khu sử dụng màu xanh – màu của không gian cũng như mang cảm hứng từ bìa album "True Blue" của Madonna về một không khí sexy bao trùm toàn album. Ca khúc thứ hai, "(I Got That) Boom Boom" mang âm hưởng của R&B/hip hop vùng Atlanta, Britney tiếp tục hát cùng với nghệ sĩ khác là Ying Yang Twins.[1][13][14]

Ca khúc thứ ba "Showdown" mang beat rất bong bóng, nói về việc "đấu tranh và bắt đầu mối quan hệ nhục dục", với những dòng như "I don’t really want to be a tease / But would you undo my zipper, please?"[1][13]. "Breathe on Me" – track tiếp sau là một trong những ca khúc sexy nhất album: "Oh, it's so hot, and I need some air/ And boy, don't stop 'cause I'm halfway there". Ca khúc có phần beat mang âm thanh điện tử với tốc độ chậm, cùng với âm hưởng của trip hop cũng như những tiếng thở ra thở vào của Britney và một trong những track hay nhất từ album này. Track thứ 5 - "Early Mornin'" nói về việc Britney tìm bạn trai ở câu lạc bộ tại New York. Trong ca khúc, giọng của Britney được nén, cùng với những tiếng ngáp và rên rỉ xuyên suốt toàn bài.

"Toxic" – ca khúc sau này được Britney nhận xét là ca khúc mà cô yêu thích nhất trong sự nghiệp của mình, là track thứ 6 cũng như single thứ 2 trong album. Ban đầu ca khúc được đưa cho Kylie Minogue để thu âm cho album "Body Language" nhưng cô đã từ chối.[15][16] Ca khúc với âm hưởng của electropopbhangra music, sử dụng thêm một số nhạc cụ như trống, tiếng lướt của ghita; cùng với giọng hát lướt nhẹ nhưng đầy sexy của Britney đã tạo ra một cảm giác đầy nguy hiểm, sexy cho ca khúc và nhận được sự đánh giá hết sức tích cực của các nhà phê bình cũng như thính giả.[17][18][19] Ca khúc cũng gây được sự chú ý khi định nghĩa lại nhạc dance-pop một cách đầy đúng đắn và cũng đã xuất hiện trong nhiều danh sách ca khúc hay nhất của thập kỷ 00. "Outrageous" – ca khúc thứ 7 và là single thứ 4 từ album, mang âm hưởng hip-hop tương tự như "I Got That Boom Boom" nhưng chất lượng hơn. Nhờ có những tiếng thì thầm và rên rỉ của Britney trên giai điệu như múa rắn, bài hát nghe có cái cảm giác lạ lùng. "Touch of My Hand", ca khúc tiếp theo được Britney cho rằng nó có nhiều nét tương đồng với "That's the Way Love Goes" – ca khúc hit năm 1993 của Janet Jackson, ngoại trừ ở đây Britney hát với giọng thấp hơn. Ca khúc cũng mang cảm giác lạ khi có sự kết hợp của các nhạc cụ vùng Trung Đông và lời bài hát liên quan đến thủ dâm: "I will be bold/ Going to the places where I can be out of control/ Don't want to explain tonight/ All the things I try to hide."

Ca khúc thứ 9, "The Hook Up" có mùi vị của reggae và giọng hát đặc trưng vùng Jamaica của Britney. Bản ballad đầu tiên trong album là ca khúc thứ 10 "Shadow" nói về nỗi nhớ người yêu da diết của cô gái với chàng trai dù chàng đã đi xa. Tiếp sau đó là ca khúc "Brave New Girl" mang âm hưởng của electro-funk cũng như của một số nghệ sĩ đi trước như No Doubt, Blondie and Madonna khá là vui nhộn, và Britney trong ca khúc này hát gần như hát rap "She's going to find her passion, she's going to find her way, she's going to get right out of this/ She don't want New York, she don't want L.A., she's going to find that special kiss., cô hát về một người phụ nữ đi tìm hạnh đến mất cả kiểm soát. Album khép lại với bản ballad tiếp theo là "Everytime" - bản sáng tác tốt nhất của cô. Trải dài trên toàn bài là tiếng piano, cùng với tiếng thở sâu của Britney, cô hát từ nhẹ nhàng đến đầy mạnh mẽ "Everytime I try to fly I fall / Without my wings I feel so small". Bài hát là nỗi niềm tự sự đau đớn của cô gái sau sự tan vỡ của mối tình đầu cũng như cầu xin lời tha thứ từ người yêu mình.[20] Khi được hỏi liệu "Everytime" có nhắc đến Timberlake hay không, Spears trả lời: "Tôi sẽ để chính bài hát tự trả lời cho nó."[21]

Danh sách bài hát sửa

STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Me Against the Music" (song ca với Madonna)Britney Spears, Madonna, Christopher Stewart, Thabiso Nikhereanye, Penelope Magnet, Terius Nash, Gary O'BrienTrixster, Penelope Magnet (co.)3:44
2."(I Got That) Boom Boom" (song ca với Ying Yang Twins)Roy Hamilton, Chyna Royal, Deongelo Holmes, Eric JacksonRoy "Royalty" Hamilton4:51
3."Showdown"Spears, Christian Karlsson, Pontus Winnberg, Henrik Jonback, Cathy DennisBloodshy & Avant3:17
4."Breathe on Me"Steve Anderson, Lisa Greene, Stephen LeeMark Taylor3:43
5."Early Mornin'"Spears, Moby, Stewart, MagnetMoby3:45
6."Toxic"Dennis, Karlsson, Winnberg, JonbackBloodshy & Avant3:21
7."Outrageous"R. KellyR. Kelly3:21
8."Touch of My Hand"Spears, Jimmy Harry, Balewa
Muhammad, Shep Solomon
Jimmy Harry, Shep Solomon4:19
9."The Hook Up"Spears, Stewart, Nikhereanye, MagnetTrixster, Penelope Magnet (co.)3:54
10."Shadow"Spears, Lauren Christy, Scott Spock, Graham Edwards, Charlie MidnightThe Matr3:45
11."Brave New Girl"Spears, Brian Kierulf, Josh Schwartz,
Kara DioGuardi
Brian and Josh3:30
12."Everytime"Spears, Annette StamatelatosGuy Sigsworth3:53
13."Me Against the Music" (Rishi Rich's Desi Kulcha Remix) (có sự tham gia của Madonna)Spears, Madonna, Stewart, Nikhereanye, Magnet, Nash, O'BrienTrixster, Penelope Magnet (co.), Rishi Rich (remix)4:33
Latin American bonus track[22]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
14."The Answer"Sean Combs, Ryan LeslieDiddy, Ryan Leslie3:54
châu Âu, Nhật Bản và Úc bonus tracks[23][24]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
14."The Answer"Combs, LeslieDiddy, Ryan Leslie3:54
15."Don't Hang Up"Spears, Kierulf, SchwartzBrian and Josh4:02
Phiên bản DualDisc bonus video
STTNhan đềĐạo diễnThời lượng
1."Toxic" (Video ca nhạc)Joseph Kahn3:30
2."Everytime" (Video ca nhạc)David LaChapelle4:10
3."Chris Cox Megamix" (Video ca nhạc)Nhiều đạo diễn3:47

Xếp hạng sửa

Chứng nhận sửa

Quốc gia Chứng nhận Doanh số
Argentina (CAPIF)[67] Bạch kim 40.000^
Úc (ARIA)[68] Bạch kim 70.000^
Áo (IFPI Áo)[69] Bạch kim 30,000*
Bỉ (BEA)[70] Vàng 25.000*
Brasil (Pro-Música Brasil)[71] Vàng 50.000*
Canada (Music Canada)[72] 3× Bạch kim 300.000^
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[73] Bạch kim 40.000^
Phần Lan (Musiikkituottajat)[74] Vàng 15,052[74]
Pháp (SNEP)[76] 2× Vàng 225,000[75]
Đức (BVMI)[77] Vàng 100,000^
Hy Lạp (IFPI Hy Lạp)[37] Vàng 10.000^
Hungary (Mahasz)[78] Vàng 10.000^
Nhật Bản (RIAJ)[79] Bạch kim 407,000^
México (AMPROFON)[80] Bạch kim 100.000^
New Zealand (RMNZ)[81] Vàng 7.500^
Na Uy (IFPI)[82] Vàng 20.000*
Bồ Đào Nha (AFP)[83] Bạch kim 40.000^
Nga (NFPF)[84] 2× Bạch kim 40.000*
Thụy Điển (GLF)[85] Vàng 30.000^
Thụy Sĩ (IFPI)[86] Vàng 20.000^
Anh Quốc (BPI)[88] Bạch kim 533,000[87]
Hoa Kỳ (RIAA)[89] 2× Bạch kim 3,000,000^
Tổng hợp
Châu Âu (IFPI)[90] Bạch kim 1.000.000*

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Tham khảo sửa

  1. ^ a b c d e f Shaw, William (ngày 20 tháng 12 năm 2003). “Britney Busts Loose! - Blender”. Blender. Alpha Media Group. ISSN 1534-0554.
  2. ^ Vaziri, Aidin (ngày 20 tháng 11 năm 2003). 20 tháng 11 năm 2003/entertainment/17519279_1_condom-ads-zone-new-album “There's more to Britney than the porn persona - just listen to her wonderfully awful new album - SFGate” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). San Francisco Chronicle. Hearst Corporation. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2010.[liên kết hỏng]
  3. ^ Moss, Corey (ngày 28 tháng 5 năm 2002). “Britney Avoids Vice, Justin Talk At Sin City Tour Opener”. MTV News. MTV Networks. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2010.
  4. ^ Moss, Corey (ngày 5 tháng 11 năm 2002). “Britney Spears' Hiatus Is History - Music, Celebrity, Artist News | MTV”. MTV. MTV Networks. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2010.
  5. ^ Stern, Bradley (tháng 2 năm 2010). “Annet Artani: From "Everytime" to "Alive". MuuMuse.com. Bradley Stern. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
  6. ^ Moss, Corey; Reid, Shaheem (ngày 6 tháng 3 năm 2003). “Who's Been Hooking Up With Britney? We Got 'Em To Talk - Music, Celebrity, Artist News | MTV”. MTV. MTV Networks. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2010.
  7. ^ Vineyard, Jennifer; Philippe, Quddus (ngày 30 tháng 5 năm 2003). “Britney Previews LP, Denies Rumors Of 'Cry Me A River' Response”. MTV. MTV Networks. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2010.
  8. ^ Moss, Corey (ngày 15 tháng 10 năm 2003). “Getting Aggressive With Britney Pays Off For RedZone”. MTV. MTV Networks. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2010.
  9. ^ a b Hiatt, Brian (ngày 2 tháng 10 năm 2003). “Material Girls”. Entertainment Weekly. Time Warner. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2010.
  10. ^ Vena, Jocelyn (ngày 20 tháng 12 năm 2009). “Britney Spears And Madonna 'Tease' Fans In 'Me Against The Music' Video”. MTV. MTV Networks. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2010.
  11. ^ Binelli, Mark (2003). “Sometimes It's Hard To Be a Woman”. Rolling Stone. Jann Wenner. ISSN 0035-791X.
  12. ^ Schriefer, Amy (ngày 16 tháng 11 năm 2009). “The 50 Most Important Recordings Of The Decade: S-Z”. NPR. National Public Radio, Inc. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  13. ^ a b Vineyard, Jennifer (ngày 22 tháng 10 năm 2003). “Britney Album Preview: Sex, Sex And More Sex - Music, Celebrity, Artist News | MTV”. MTV. MTV Networks. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2010.
  14. ^ Sanneh, Kelefa (ngày 17 tháng 11 năm 2003). “Oops! It's Album Time Again, Britney”. The New York Times. The New York Times Company. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010.
  15. ^ Editorial Staff, AccessHollywood.com (ngày 30 tháng 5 năm 2010). “Britney Spears Breaks 5 Million Followers Barrier on Twitter | NBC Philadelphia”. NBC Philadelphia. NBC Universal. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2010.
  16. ^ Staff, Reporter (ngày 13 tháng 1 năm 2008). “Kylie dumped Toxic for Brit | The Sun |Showbiz|Music”. The Sun. UK: News Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2010.
  17. ^ Reporter, Sputnikmusic (ngày 29 tháng 12 năm 2009). “Britney Spears - The Singles Collection (album review) | Sputnikmusic”. Sputnikmusic. Jeremy Ferwerda. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2010.
  18. ^ Shawhan, Jason (2003). “Kylie Minogue – Body Language and Britney Spears – In the Zone”. About.com. The New York Times Company. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  19. ^ D., Spence (ngày 16 tháng 11 năm 2004). “Britney Spears Greatest Hits: My Prerogative”. IGN. News Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2010.
  20. ^ Vineyard, Jennifer (ngày 2 tháng 3 năm 2004). “Britney Checking Into Onyx Hotel Wearing Rubberlike Outfit”. MTV. MTV Networks. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2010.
  21. ^ Sanchez, Rowena Joy A. (ngày 4 tháng 10 năm 2009). 'This one's for you': Ex-music couples sing of their love woes”. Manila Bulletin. Manila Bulletin Publishing Corp. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2010.
  22. ^ “CD In the Zone - Submarino.com.br”. Submarino. B2W - Companhia Global do Varejo. ngày 9 tháng 11 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2011.
  23. ^ “In The Zone: Britney Spears, Madonna, Ying Yang Twins: Amazon.co.uk: Music”. Amazon.co.uk. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2011.
  24. ^ “Amazon.co.jp: In The Zone: ブリトニー・スピアーズ, マドンナ, イン・ヤン・ツインズ: 音楽”. Amazon.co.jp. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2011.
  25. ^ "Australiancharts.com – Britney Spears – In The Zone". Hung Medien. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017.
  26. ^ "Austriancharts.at – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017.
  27. ^ "Ultratop.be – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017.
  28. ^ "Ultratop.be – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017.
  29. ^ "Britney Spears Chart History (Canadian Albums)". Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017.
  30. ^ "Czech Albums – Top 100". ČNS IFPI. Ghi chú: Trên trang biểu đồ này, chọn {{{date}}} trên trường này ở bên cạnh từ "Zobrazit", và sau đó nhấp qua từ để truy xuất dữ liệu biểu đồ chính xác. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  31. ^ "Danishcharts.dk – Britney Spears – In The Zone". Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  32. ^ "Dutchcharts.nl – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  33. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2017.
  34. ^ "Britney Spears: In The Zone" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017.
  35. ^ "Lescharts.com – Britney Spears – In The Zone". Hung Medien. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017.
  36. ^ “Charts.de: Britney Spears (Albums)”. Charts.de. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2011.
  37. ^ a b “Greek Foreign Albums Chart”. IFPI Greece. ngày 5 tháng 6 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2004. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2012.
  38. ^ “Hungarian Top 40 Albums Chart”. Mahasz. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2009.
  39. ^ "GFK Chart-Track Albums: Week 6, 2004". Chart-Track. IRMA. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  40. ^ "Italiancharts.com – Britney Spears – In The Zone". Hung Medien. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017.
  41. ^ “Oricon Weekly for 2003 week 46 – generasia”. Generasia. ngày 26 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  42. ^ "Charts.nz – Britney Spears – In The Zone". Hung Medien. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017.
  43. ^ "Norwegiancharts.com – Britney Spears – In The Zone". Hung Medien. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017.
  44. ^ “Oficjalna Lista Sprzedažy” (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. ngày 1 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  45. ^ "Portuguesecharts.com – Britney Spears – In The Zone". Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  46. ^ "Swedishcharts.com – Britney Spears – In The Zone". Hung Medien. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017.
  47. ^ "Britney Spears | Artist | Official Charts". UK Albums Chart. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017.
  48. ^ "Britney Spears Chart History (Billboard 200)". Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017.
  49. ^ "Britney Spears Chart History (Top R&B/Hip-Hop Albums)". Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017.
  50. ^ “Hit Parade Italia – ALBUM 2003”. FIMI. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  51. ^ “Swiss End of Year Charts 2003”. Swiss Music Charts. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  52. ^ “UK Year-end Albums 2003” (PDF). The Official Charts Company. Chartplus.co.uk. tr. 4. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  53. ^ “Top 50 Global Best Selling Albums for 2002” (PDF). International Federation of the Phonographic Industry. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2017.
  54. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Albums 2004”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  55. ^ “Jahreshitparade 2004 – austriancharts.at” (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria. ngày 26 tháng 12 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  56. ^ “Jaaroverzichten 2004”. Ultratop. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  57. ^ “Rapports Annuel 2004”. Ultratop. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  58. ^ “Jaaroverzichten – Album 2004” (bằng tiếng Hà Lan). MegaCharts. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  59. ^ “Classement Albums - année 2004” (bằng tiếng Pháp). SNEP. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  60. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts”. GfK Entertainment (bằng tiếng Đức). offiziellecharts.de. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2017.
  61. ^ “Összesített album- és válogatáslemez-lista”. Mahasz. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  62. ^ “2004年 アルバム年間TOP100” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2017.
  63. ^ “Swiss End of Year Charts 2008”. Swiss Music Charts. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  64. ^ “UK Year-end Albums 2004” (PDF). The Official Charts Company. Chartplus.co.uk. tr. 3. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  65. ^ “2004 YEAR END CHARTS”. Billboard. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2017.
  66. ^ “Best of the 2000s Billboard 200 Albums”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2011.
  67. ^ “Chứng nhận album Argentina – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Cámara Argentina de Productores de Fonogramas y Videogramas. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  68. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2004 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  69. ^ “Chứng nhận album Áo – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  70. ^ “Ultratop − Goud en Platina – albums 2003” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  71. ^ “Chứng nhận album Brasil – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  72. ^ “Chứng nhận album Canada – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  73. ^ “Danish sales certification”. IFPI - Denmark. ngày 9 tháng 6 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  74. ^ a b “Chứng nhận album Phần Lan – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  75. ^ “French album sales”. Syndicat National de l'Édition Phonographique. Info Disc. ngày 5 tháng 11 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  76. ^ “Chứng nhận album Pháp – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  77. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Britney Spears; 'In the Zone')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  78. ^ “Adatbázis – Arany- és platinalemezek – 2004” (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  79. ^ “Chứng nhận album Nhật Bản – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014. Chọn 2003年12月 ở menu thả xuống
  80. ^ “Mexican sales certification” (bằng tiếng Tây Ban Nha). AMPROFON. 2013. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  81. ^ “Chứng nhận album New Zealand – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  82. ^ “Norwegian sales certification”. IFPI - Norway. 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  83. ^ “Top 30 Artistas – Semana 20 de 2004” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Fonográfica Portuguesa. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2016.
  84. ^ “Russian album certifications – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Nga). National Federation of Phonogram Producers (NFPF). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2013.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  85. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 2004” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Sweden. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  86. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('In the Zone')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  87. ^ Justin Myers (ngày 13 tháng 6 năm 2015). “Britney Spears: her biggest selling singles and albums revealed”. Official Charts. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2015.
  88. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014. Chọn album trong phần Format. Chọn Bạch kim' ở phần Certification. Nhập In the Zone vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  89. ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  90. ^ “IFPI Platinum Europe Awards – 2004”. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.

Liên kết ngoài sửa