Giải bóng rổ Nhà nghề Mỹ

liên đoàn thể thao chuyên nghiệp Bắc Mỹ
(Đổi hướng từ National Basketball Association)


Giải bóng rổ Nhà nghề Mỹ (tên tiếng Anh: National Basketball Association, viết tắt là NBA) là giải đấu bóng rổ chuyên nghiệp ở Bắc Mỹ bao gồm 30 đội (29 ở Hoa Kỳ và 1 ở Canada). Đây là một trong các giải đấu thể thao chuyên nghiệp lớn ở Hoa Kỳ và Canada và được coi là giải đấu bóng rổ chuyên nghiệp hàng đầu trên thế giới.[3]

National Basketball Association
Mùa giải hiện tại hoặc giải đấu:
Sự kiện thể thao đang diễn ra Mùa giải NBA 2023–24
Môn thể thaoBóng rổ
Thành lập6 tháng 6 năm 1946; 77 năm trước (1946-06-06)
(với tên gọi BAA),
Thành phố New York, New York, Hoa Kỳ[1]
Mùa đầu tiên1946–47
Ủy viên hội đồngAdam Silver
Số đội30
Các quốc giaHoa Kỳ (29 đội)
Canada (1 đội)
Trụ sở645 Fifth Avenue
Thành phố New York, New York 10022
Hoa Kỳ[2]
Đương kim vô địchDenver Nuggets
(danh hiệu thứ 1)
Nhiều danh hiệu nhấtBoston Celtics
Los Angeles Lakers
(mỗi đội 17 lần)
Đối tác truyền thông
Trang chủNBA.com

Giải đấu được thành lập tại thành phố New York vào ngày 6 tháng 6 năm 1946 với tên gọi Basketball Association of America (BAA).[1] Nó đổi tên thành National Basketball Association vào ngày 3 tháng 8 năm 1949, sau khi sáp nhập với giải đấu cạnh tranh National Basketball League (NBL).[4] Năm 1976, NBA và American Basketball Association (ABA) hợp nhất, thêm bốn đội bóng vào NBA. Mùa giải thường niên của NBA diễn ra từ tháng 10 đến tháng 4, với mỗi đội chơi 82 trận. Giải đấu playoff của giải kéo dài đến tháng 6, với đỉnh cao là trận tranh chức vô địch NBA Finals. Tính đến năm 2020, Các cầu thủ NBA là những vận động viên được trả lương cao nhất thế giới tính theo mức lương trung bình hàng năm cho mỗi cầu thủ.[5][6][7]

NBA là thành viên tích cực của USA Basketball (USAB),[8] được FIBA (Liên đoàn bóng rổ quốc tế) công nhận là cơ quan quản lý quốc gia về bóng rổ ở Hoa Kỳ. Một số văn phòng nhóm quốc tế cũng như cá nhân của giải đấu được chuyển ra khỏi trụ sở chính ở Midtown Manhattan, trong khi các studio NBA EntertainmentNBA TV của nó được chuyển ra khỏi văn phòng ở Secaucus, New Jersey. Ở Bắc Mỹ, NBA là giải đấu thể thao chuyên nghiệp giàu có thứ ba sau National Football League (NFL) và Major League Baseball (MLB) theo doanh thu, và nằm trong top 4 thế giới.[9]

Boston CelticsLos Angeles Lakers có số chức vô địch NBA nhiều nhất và bằng nhau với 17 lần mỗi đội. Đương kim vô địch giải đấu là Denver Nuggets, đội đã đánh bại Miami Heat trong NBA Finals 2023.

Thông qua dự án NBA Cares của mình, NBA cũng đã chủ động giúp đỡ các hoạt động từ thiện và các vấn đề xã hội, thể hiện sự cống hiến của mình trong việc tạo ra tác động tích cực đến các cộng đồng trên toàn thế giới.

Lịch sử sửa

Thành lập và sáp nhập BAA–NBL (1946–1956) sửa

Giải bóng rổ Nhà nghề Mỹ được thành lập vào năm 1946 bởi chủ sở hữu của các sân vận động khúc côn cầu trên băng lớn ở Đông BắcTrung Tây Hoa Kỳ và Canada. Vào ngày 1 tháng 11 năm 1946, tại Toronto, Ontario, Canada, đội Toronto Huskies tổ chức trận đấu với New York Knickerbockers tại Maple Leaf Gardens, trong một trận đấu mà NBA ngày nay gọi là trận đấu đầu tiên diễn ra trong lịch sử NBA.[10] Pha ghi điểm đầu tiên được thực hiện bởi Ossie Schectman của đội Knickerbockers. Mặc dù đã có những nỗ lực trước đó tại các giải bóng rổ chuyên nghiệp, bao gồm American Basketball League (ABL) và NBL, BAA là giải đấu đầu tiên cố gắng thi đấu chủ yếu ở các sân vận động lớn ở các thành phố lớn. Trong những năm đầu thành lập, chất lượng thi đấu ở BAA không tốt hơn đáng kể so với các giải đấu cạnh tranh hoặc giữa các câu lạc bộ độc lập hàng đầu như Harlem Globetrotters. Ví dụ: đội vào chung kết ABL năm 1948 Baltimore Bullets đã chuyển đến BAA và giành chức vô địch năm 1948 của giải đấu đó, và nhà vô địch NBL năm 1948 Minneapolis Lakers đã giành được danh hiệu BAA năm 1949. Tuy nhiên, tính đến 1948–49, các đội NBL từ Fort Wayne, Indianapolis, Minneapolis và Rochester đã chuyển sang BAA, điều đó xác lập BAA trở thành giải đấu được lựa chọn cho các sinh viên đại học muốn chuyển sang thi đấu chuyên nghiệp.[11]

Vào ngày 3 tháng 8 năm 1949, các đội NBL còn lại (Syracuse, Anderson, Tri-Cities, Sheboygan, Denver và Waterloo) sáp nhập vào BAA. Để tôn trọng việc sáp nhập và để tránh những rắc rối pháp lý có thể xảy ra, tên giải đấu đã được đổi thành Giải bóng rổ Nhà nghề Mỹ như hiện nay, mặc dù giải đấu được sáp nhập vẫn giữ cơ quan quản lý của BAA, bao gồm cả Maurice Podoloff làm chủ tịch.[11] Cho đến ngày nay, NBA vẫn tuyên bố lịch sử của BAA là của riêng mình. Hiện tại, nó coi sự xuất hiện của các đội NBL là một sự mở rộng, không phải là sự hợp nhất và không công nhận các kỉ lục và thống kê của NBL.[12]

Giải đấu mới có mười bảy đội bóng nằm ở sự kết hợp giữa các thành phố lớn và nhỏ,[13] cũng như các sân vận động, phòng tập thể dục và kho vũ khí nhỏ hơn. Năm 1950, NBA hợp nhất thành 11 đội bóng, quá trình này tiếp tục cho đến năm 1954–55, khi giải đấu đạt quy mô nhỏ nhất trong số 8 đội bóng: New York Knicks, Boston Celtics, Philadelphia Warriors, Minneapolis Lakers, Rochester Royals, Fort Wayne Pistons, Milwaukee HawksSyracuse Nationals, tất cả đều vẫn còn tham gia giải đấu cho đến ngày nay, mặc dù sáu đội sau cuối cùng đã chuyển địa điểm. Quá trình thu hẹp chứng kiến ​​​​các đội bóng ở thành phố nhỏ hơn của liên đoàn chuyển đến các thành phố lớn hơn. Đội Hawks chuyển từ Tri-Cities đến Milwaukee vào năm 1951, và sau đó chuyển đến St. Louis vào năm 1955. Đội Rochester Royals chuyển từ Rochester, New York đến Cincinnati vào năm 1957 và đội Pistons chuyển từ Fort Wayne, Indiana đến Detroit vào năm 1957.

Người Mỹ gốc Nhật Wataru Misaka đã phá vỡ rào cản màu da của NBA trong mùa giải 1947–48 khi anh chơi cho New York Knicks. Anh vẫn là cầu thủ không phải da trắng duy nhất trong lịch sử giải đấu trước khi cầu thủ người Mỹ gốc Phi đầu tiên, Harold Hunter, ký hợp đồng với Washington Capitols vào năm 1950.[14][15] Hunter đã bị loại khỏi đội trong trại huấn luyện,[14][16] nhưng một số cầu thủ người Mỹ gốc Phi đã chơi ở giải đấu vào cuối năm đó, bao gồm Chuck Cooper với Celtics, Nathaniel "Sweetwater" Clifton với Knicks và Earl Lloyd với Washington Capitols. Trong giai đoạn này, Minneapolis Lakers, do trung phong George Mikan dẫn đầu, đã giành được 5 chức vô địch NBA và khẳng định mình là triều đại đầu tiên của giải đấu.[17] Để khuyến khích việc ném bóng và ngăn cản việc trì hoãn, giải đấu đã giới thiệu đồng hồ shot clock 24 giây vào năm 1954.[18] Nếu một đội không cố gắng ghi điểm (hoặc bóng không tiếp xúc với vành) trong vòng 24 giây kể từ khi lấy được bóng, trận đấu sẽ dừng lại và bóng được trao cho đối phương.

Sự thống trị của Celtics, mở rộng giải đấu và cạnh tranh (1956–1979) sửa

Vào năm 1957, tân binh Bill Russell gia nhập Boston Celtics, đội đã có hậu vệ Bob Cousy và HLV Red Auerback, và dẫn dắt đội bóng tới 11 chức vô địch NBA trong 13 năm. Trung phong Wilt Chamberlain gia nhập giải đấu năm 1959 với đội Warriors năm 1959 và trở thành ngôi sao thống trị trong những năm 1960, lập kỷ lục mới trong một trận đấu về ghi điểm (100) và bắt bóng bật bảng (55). Sự kình địch của Russell với Chamberlain đã trở thành một trong những cuộc so tài lớn nhất trong lịch sử thể thao đồng đội của Mỹ.[19]

Những năm 1960 bị thống trị bởi Celtics. Được dẫn dắt bởi Russell, CousyAuerbach, Boston đã giành được 8 chức vô địch liên tiếp tại NBA từ năm 1959 đến năm 1966. Chuỗi chức vô địch này là dài nhất trong lịch sử NBA. Họ không giành được danh hiệu này vào mùa giải 1966–67, nhưng giành lại nó vào mùa giải 1967–68 và lặp lại vào năm 1969. Sự thống trị tổng cộng là chín trong số mười biểu ngữ vô địch của những năm 1960.[20]

Trong giai đoạn này, NBA tiếp tục phát triển với sự chuyển đổi của Minneapolis Lakers đến Los Angeles, Philadelphia Warriors đến San Francisco, Syracuse Nationals đến Philadelphia để trở thành Philadelphia 76ersSt. Louis Hawks cũng chuyển đến Atlanta như việc bổ sung đội bóng đầu tiên của thành phố. Chicago Packers (nay là Washington Wizards) trở thành đội NBA thứ chín vào năm 1961. Từ năm 1966 đến năm 1968, giải đấu mở rộng từ 9 lên 14 đội, với các đội Chicago Bulls, Seattle SuperSonics (nay là Oklahoma City Thunder), San Diego Rockets (đội đã chuyển đến đến Houston bốn năm sau), Milwaukee BucksPhoenix Suns.

Năm 1967, giải đấu phải đối mặt với một mối đe dọa mới từ bên ngoài với việc thành lập Hiệp hội Bóng rổ Hoa Kỳ (ABA). Các giải đấu tham gia vào một cuộc chiến đấu thầu. NBA đã chiêu mộ ngôi sao đại học quan trọng nhất thời đại lúc đó, Kareem Abdul-Jabbar (lúc đó được gọi là Lew Alcindor). Tuy nhiên, cầu thủ ghi điểm hàng đầu của NBA, Rick Barry, đã nhảy vào ABA, cũng như bốn trọng tài kỳ cựu—Norm Drucker, Earl Strom, John Vanak và Joe Gushue.[21]

Năm 1969, Alan Siegel, người giám sát việc thiết kế logo Major League Baseball của Jerry Dior một năm trước đó, đã tạo ra logo NBA hiện đại lấy cảm hứng từ giải MLB. Nó kết hợp bóng của Jerry West, dựa trên bức ảnh của Wen Roberts. NBA sẽ không xác nhận rằng một cầu thủ cụ thể đã được sử dụng bởi vì, theo Siegel, "Họ muốn thể chế hóa nó hơn là cá nhân hóa nó. Nó đã trở thành một biểu tượng cổ điển, phổ biến và là tâm điểm về danh tính cũng như chương trình cấp phép của họ đến mức họ không nhất thiết phải muốn xác định nó với một cầu thủ." Logo ra mắt lần đầu tiên vào năm 1971 (với một thay đổi nhỏ về kiểu chữ trên nhãn chữ NBA vào năm 2017) và sẽ vẫn là một vật cố định của thương hiệu NBA.[22]

Giải ABA đã thành công trong việc ký hợp đồng với một số ngôi sao lớn trong những năm 1970, bao gồm cả Julius Erving của Virginia Squires, một phần vì nó cho phép các đội ký hợp đồng với sinh viên chưa tốt nghiệp. NBA phát triển nhanh chóng trong giai đoạn này. Từ năm 1966 đến năm 1974, NBA đã phát triển từ chín đội bóng lên 18. Năm 1970, Portland Trail Blazers, Cleveland CavaliersBuffalo Braves (nay là Los Angeles Clippers) đều có lần đầu tiên xuất hiện, mở rộng giải đấu lên 17 đội. New Orleans Jazz (hiện ở Utah) gia nhập vào năm 1974, nâng tổng số đội lên 18. Sau mùa giải 1976, các giải đấu đã đạt được thỏa thuận cung cấp thêm bốn đội bóng ABA cho NBA, nâng cao số lượng đội bóng trong giải đấu vào thời điểm đó là 22. Các đội bóng được thêm vào là San Antonio Spurs, Denver Nuggets, Indiana PacersNew York Nets (nay là Brooklyn Nets). Một số ngôi sao lớn nhất của thời đại này là Abdul-Jabbar, Barry, Dave Cowens, Erving, Elvin Hayes, Walt Frazier, Moses Malone, Artis Gilmore, George Gervin, Dan IsselPete Maravich. Tuy nhiên, vào cuối thập kỷ này, chứng kiến ​​tỷ suất người xem truyền hình sụt giảm, lượng người tham gia các trận đấu thấp và các vấn đề về cầu thủ liên quan đến ma túy - cả về nhận thức lẫn thực tế - đã đe dọa làm chệch hướng giải đấu.[22]

Mức độ nổi tiếng ngày càng tăng (1979–1998) sửa

Cả Magic JohnsonLarry Bird đều trở thành các ngôi sao của NBA thập niên 80

Giải đấu đã bổ sung thêm cú ném ba điểm của ABA bắt đầu từ năm 1979.[23] Cùng năm đó, các tân binh Larry BirdMagic Johnson gia nhập Boston CelticsLos Angeles Lakers theo thứ tự, bắt đầu một thời kỳ tăng trưởng đáng kể về sự quan tâm của người hâm mộ đối với NBA.[24] Cả hai đã đối đầu với nhau trong Trận đấu tranh chức vô địch bóng rổ NCAA Division I năm 1979, và sau đó họ đấu với nhau trong ba trận chung kết NBA (1984, 1985 và 1987).[24] Trong 10 mùa giải của thập niên 1980, Johnson đã dẫn dắt Lakers tới 5 danh hiệu[25] trong khi Bird dẫn dắt Celtics tới 3 danh hiệu.[26] Cũng vào đầu những năm 1980, NBA bổ sung thêm một đội bóng nữa là Dallas Mavericks,[27] nâng tổng số lên 23 đội. Sau đó, Larry Bird đã giành chiến thắng trong ba cuộc thi ném ba điểm đầu tiên.[28] Vào ngày 1 tháng 2 năm 1984 David Stern trở thành ủy viên hội đồng của NBA.[29] Stern đã được công nhận là người đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của giải đấu trong sự nghiệp của anh ấy.[30][31]

 
Michael Jordan trở thành cầu thủ nổi tiếng nhất giải đấu thập niên 90, khi dẫn dắt Chicago Bulls tới sáu chức vô địch.

Michael Jordan tham gia giải đấu năm 1984 với Chicago Bulls, thu hút nhiều sự quan tâm hơn đến giải đấu.[32] Vào năm 1988 và 1989, bốn thành phố đã đạt được mong muốn của mình khi Charlotte Hornets, Miami Heat, Orlando MagicMinnesota Timberwolves ra mắt NBA, nâng tổng số lên 27 đội.[33] Đội Detroit Pistons đã liên tiếp giành chức vô địch NBA vào năm 1989 và 1990, dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Chuck Daly và hậu vệ Isiah Thomas.[34] Jordan và Scottie Pippen đã dẫn dắt Bulls tới hai chức vô địch ba lần trong tám năm trong các mùa giải 1991–1998.[35][36] Hakeem Olajuwon đã liên tiếp giành được các danh hiệu với Houston Rockets vào năm 1994 và 1995.[37]

Đội bóng trong mơ (Dream Team) Olympic 1992, đội đầu tiên sử dụng các ngôi sao NBA hiện tại, có Michael Jordan làm người dẫn dắt, cùng với Bird, Johnson, David Robinson, Patrick Ewing, Scottie Pippen, Clyde Drexler, Karl Malone, John Stockton, Chris Mullin, Charles Barkley, và ngôi sao nghiệp dư của NCAA Christian Laettner.[38] Đội đã được bầu vào Đại sảnh Danh vọng Bóng rổ Tưởng niệm Naismith, trong khi 11 trong số 12 cầu thủ (cùng với 3 trong số 4 huấn luyện viên) đã được giới thiệu với tư cách cá nhân theo quyền riêng của họ.[39]

Năm 1995, NBA mở rộng sang Canada với sự bổ sung của Vancouver GrizzliesToronto Raptors.[40][41] Năm 1996, NBA thành lập một giải đấu dành cho nữ, Hiệp hội Bóng rổ Quốc gia Nữ (WNBA).[42]

Các triều đại của Lakers và Spurs (1998–2014) sửa

 
Tim Duncan dẫn dắt San Antonio Spurs tới 5 chức vô địch NBA giữa năm 1999 và 2014.

Năm 1998, các nhà sở hữu NBA bắt đầu áp dụng lệnh cấm mọi hoạt động kinh doanh của giải đấu cho đến khi đạt được thỏa thuận lao động mới, khiến mùa giải bị rút ngắn một nửa.[43][44] San Antonio Spurs giành chức vô địch vào cuối mùa giải 1998–99, trở thành đội cựu ABA đầu tiên giành chức vô địch NBA.[45]

Sau khi đội hình nhà vô địch Chicago Bulls tan rã vào mùa hè năm 1998, Liên đoàn miền Tây đã thống trị phần lớn thời gian trong hai thập kỷ tiếp theo. Los Angeles Lakers, do Phil Jackson huấn luyện và San Antonio Spurs, do Gregg Popovich huấn luyện, đã cùng nhau lọt vào 13 trận Chung kết trong 16 mùa giải, với 10 danh hiệu. Tim DuncanDavid Robinson đã giành chức vô địch năm 1999 cùng Spurs, còn Shaquille O'NealKobe Bryant bắt đầu những năm 2000 với ba chức vô địch liên tiếp cho Lakers. Spurs giành lại danh hiệu vào năm 2003 trước Nets. Năm 2004, Lakers trở lại Chung kết, chỉ để thua Detroit Pistons trong 5 trận.

Hình ảnh của giải đấu đã bị hoen ố bởi một vụ bạo lực giữa các cầu thủ và người hâm mộ trong trận đấu tháng 11 năm 2004 giữa Indiana PacersDetroit Pistons.[46] Đáp lại, các cầu thủ đã bị đình chỉ tổng cộng 146 trận đấu với tổng số tiền lương bị phạt là 11 triệu USD, và liên đoàn đã thắt chặt an ninh và hạn chế bán rượu.[46]

Vào ngày 19 tháng 5 năm 2005, Ủy viên hội đồng Stern đã làm chứng trước Ủy ban Cải cách Chính phủ của Hạ viện Hoa Kỳ về các hành động của NBA nhằm chống lại việc sử dụng steroid và các loại thuốc tăng cường thành tích khác. NBA bắt đầu chương trình kiểm tra ma túy vào năm 1983 và cải thiện đáng kể nó vào năm 1999. Trong mùa giải 1999–2000, tất cả các cầu thủ đều được kiểm tra ngẫu nhiên trong trại huấn luyện và tất cả các tân binh đều được kiểm tra bổ sung ba lần nữa trong mùa giải thông thường. Trong số gần 4.200 cuộc kiểm tra steroid và thuốc tăng cường thành tích được thực hiện trong sáu mùa giải, chỉ có ba cầu thủ được xác nhận dương tính với chương trình sử dụng ma túy của NBA, tất cả đều bị đình chỉ ngay lập tức và tính đến thời điểm lấy lời khai, không có ai đang chơi ở NBA.[47]

Sau khi Spurs giành lại chức vô địch vào năm 2005, Vòng chung kết năm 2006 có sự góp mặt của hai đội bóng lần đầu tiên góp mặt trong trận Chung kết. Miami Heat, dẫn đầu bởi ngôi sao hậu vệ ghi điểm của họ, Dwyane Wade, và Shaquille O'Neal, người đã được trao đổi từ Lakers vào mùa hè năm 2004, đã giành chiến thắng trong loạt trận này trước Dallas Mavericks. Sự thống trị của Lakers/Spurs tiếp tục diễn ra vào năm 2007 với chiến thắng trong 4 trận của Spurs trước Cleveland Cavaliers do LeBron James dẫn dắt. Vòng chung kết năm 2008 chứng kiến ​​​​sự tái đấu của cặp kình địch nổi tiếng nhất giải đấu, Boston CelticsLos Angeles Lakers, với việc Celtics giành chức vô địch thứ 17. Lakers liên tiếp giành chức vô địch vào năm 2009 và 2010 trước Orlando Magic và Celtics.[48][49] Trận đấu NBA All-Star 2010 được tổ chức tại Sân vận động Cowboys trước số lượng khán giả lớn nhất từ ​​trước đến nay, 108,713.[50]

Việc ngừng hoạt động trọng tài bắt đầu vào ngày 1 tháng 9 năm 2009, khi hợp đồng giữa NBA và các trọng tài của họ hết hạn.Các trận đấu trước mùa giải đầu tiên được diễn ra vào ngày 1 tháng 10 năm 2009, và các trọng tài thay thế từ WNBANBA Development League đã được sử dụng, lần đầu tiên các trọng tài thay thế được sử dụng kể từ đầu mùa giải 1995–96. NBA và các trọng tài chính thức đã đạt được thỏa thuận vào ngày 23 tháng 10 năm 2009.[51][52]

Vào đầu mùa giải 2010–11, các cầu thủ tự do LeBron JamesChris Bosh đã ký hợp đồng với Miami Heat, cùng với Dwyane Wade tạo thành "Big Three". Heat thống trị giải đấu, lọt vào Chung kết trong 4 năm liên tiếp. Năm 2011, họ tái đấu với Dallas Mavericks nhưng để thua đội bóng do Dirk Nowitzki dẫn dắt. Họ đã giành được các danh hiệu liên tiếp vào năm 20122013 trước Oklahoma City Thunder và Spurs, và để thua trong trận tái đấu với Spurs ở trận Chung kết năm 2014.

Mùa giải 2011–12 bắt đầu với một lần đóng cửa khác, lần thứ tư của giải đấu.[53] Sau khi vài tuần đầu tiên của mùa giải bị hủy bỏ, các cầu thủ và chủ sở hữu đã phê chuẩn một thỏa thuận thương lượng tập thể mới vào ngày 8 tháng 12 năm 2011, thiết lập một mùa giải rút ngắn 66 trận.[54] Vào ngày 1 tháng 2 năm 2014, ủy viên hội đồng David Stern nghỉ hưu sau 30 năm đảm nhiệm chức vụ này và người kế nhiệm là cấp phó của ông, Adam Silver.[55]

Triều đại của Golden State Warriors và những năm gần đây (2014–nay) sửa

 
Kobe Bryant đang phòng thủ LeBron James trong trận đấu tháng 2 năm 2016 giữa Los Angeles LakersCleveland Cavaliers

Sau bốn mùa giải thi đấu cho Miami Heat, LeBron James trở lại Cleveland Cavaliers cho mùa giải 2014–15. Anh ấy đã dẫn dắt đội đến trận Chung kết thứ hai với sự giúp đỡ của Kyrie IrvingKevin Love. Golden State Warriors đã đánh bại Cavaliers trong sáu trận, dẫn đầu bởi "Splash Brothers" Stephen CurryKlay Thompson. Cavaliers và Warriors đối đầu nhau trong trận Chung kết với kỷ lục bốn lần liên tiếp. Trong mùa giải 2015–16, Warriors kết thúc mùa giải với tỷ số 73–9, kỷ lục mùa giải tốt nhất trong lịch sử NBA.[56] Tuy nhiên, Cavaliers đã vượt qua việc bị dẫn trước 3–1 trong trận Chung kết để giành chức vô địch đầu tiên của họ trong mùa giải đó.[57] Trong mùa giải 2016–17, Warriors đã chiêu mộ cầu thủ tự do Kevin Durant và giành chiến thắng trong trận Chung kết năm 20172018 trước Cavaliers.

Sau sự ra đi của James vào năm 2018, chuỗi trận playoff và trận Chung kết của Cavaliers đã kết thúc. Warriors có lần thứ năm liên tiếp góp mặt trong trận Chung kết vào năm 2019 nhưng để thua Toronto Raptors, đội đã giành chức vô địch đầu tiên sau khi có được Kawhi Leonard trong một cuộc trao đổi.[58]

Mùa giải 2019–20 bị đình chỉ vô thời hạn vào ngày 11 tháng 3 năm 2020 do đại dịch COVID-19, sau khi trung phong Utah Jazz Rudy Gobert có kết quả xét nghiệm dương tính với virus Corona.[59][60] Vào ngày 4 tháng 6 năm 2020, Hội đồng Thống đốc NBA đã bỏ phiếu để tiếp tục mùa giải theo thể thức 22 đội với 8 trận xếp hạt giống cho mỗi đội và thể thức vòng loại trực tiếp thông thường, với tất cả các trận đấu diễn ra theo dạng "bong bóng" trong Walt Disney World mà không có bất kỳ người hâm mộ nào đến xem.[61][62][63]

Thời đại này cũng chứng kiến ​​​​lượng người xem NBA liên tục giảm so với cùng kỳ năm trước. Từ năm 2012 đến năm 2019, giải đấu đã mất 40 đến 45% lượng người xem. Trong khi một số trong đó có thể được cho là do "cắt cáp", các giải đấu chuyên nghiệp khác, như NFL và MLB vẫn giữ được lượng người xem ổn định. Trận mở màn Vòng chung kết năm 2020 giữa Los Angeles LakersMiami Heat chỉ thu hút 7,41 triệu người xem tại ABC, theo The Hollywood Reporter. Đó được cho là lượng người xem trận Chung kết thấp nhất kể từ ít nhất là năm 1994, khi tổng số người xem bắt đầu được ghi nhận thường xuyên và giảm 45% so với trận một giữa Golden State WarriorsToronto Raptors, vốn có 13,51 triệu người xem một năm trước đó. Một số người cho rằng sự suy giảm này là do lập trường chính trị mà giải đấu và các cầu thủ của nó đang thực hiện, trong khi những người khác coi việc quản lý tải, sự phân bổ tài năng không đồng đều giữa các liên đoàn và việc hủy đăng ký từ người xem trẻ tuổi là lý do chính dẫn đến sự suy giảm.[64][65][66][67][68]

Trong các mùa giải 2020–21 và 2021–22, Milwaukee Bucks đánh bại Phoenix Suns tại NBA Finals 2021, giành chức vô địch NBA thứ hai kể từ năm 1971, và Golden State Warriors xuất hiện lần thứ sáu trong trận chung kết, đánh bại Boston CelticsNBA Finals 2022, chức vô địch thứ tư của họ sau tám năm.[69][70]

Mùa giải 2022–23 chứng kiến ​​Denver Nuggets, do trung phong Nikola Jokić dẫn dắt, lần đầu tiên góp mặt tại NBA Finals và đánh bại Miami Heat sau 5 trận để giành chức vô địch NBA đầu tiên.[71]

Ảnh hưởng quốc tế sửa

Theo chân những người tiên phong như Vlade Divac (Serbia) và Dražen Petrović (Croatia), những người gia nhập NBA vào cuối những năm 1980, ngày càng có nhiều cầu thủ quốc tế chuyển trực tiếp từ việc thi đấu ở những nơi khác trên thế giới sang thi đấu tại NBA. Kể từ năm 2006, NBA đã đối đầu với các đội EuroLeague trong các trận đấu triển lãm trong NBA Europe Live Tour và kể từ năm 2009, trong EuroLeague American Tour.

Mùa giải 2013–14 mở đầu với kỷ lục 92 cầu thủ quốc tế trong danh sách đêm khai mạc, đại diện cho 39 quốc gia và chiếm hơn 20% số lượng cầu thủ của giải đấu.[72] NBA định nghĩa các cầu thủ "quốc tế" là những người sinh ra bên ngoài 50 bang của Hoa Kỳ và Washington, D.C. Điều này có nghĩa là:

Người chơi sinh ra ở các vùng lãnh thổ của Hoa Kỳ như Puerto Rico và Quần đảo Virgin thuộc Hoa Kỳ, đáng chú ý nhất là Tim Duncan, người gốc USVI, được tính là "quốc tế" mặc dù họ là công dân Hoa Kỳ khi sinh ra và thậm chí có thể đã đại diện cho Hoa Kỳ trong cuộc thi quốc tế (như Duncan ).

Các cầu thủ sinh ra ở Hoa Kỳ không được tính là "quốc tế" ngay cả khi họ sinh ra với quốc tịch ở một quốc gia khác và đại diện cho quốc gia đó trên trường quốc tế, chẳng hạn như Joakim NoahKosta Koufos.

Đầu mùa giải 2017–18 chứng kiến ​​kỷ lục 108 cầu thủ quốc tế đại diện cho 42 quốc gia, đánh dấu 4 năm liên tiếp có ít nhất 100 cầu thủ quốc tế và mỗi đội có ít nhất một cầu thủ quốc tế.[73] Năm 2018, Phoenix Suns đã thuê huấn luyện viên người Serbia Igor Kokoškov làm huấn luyện viên trưởng mới của họ, thay thế huấn luyện viên tạm thời người Canada Jay Triano, đưa Kokoškov trở thành huấn luyện viên châu Âu đầu tiên trở thành huấn luyện viên trưởng cho một đội ở NBA.

Trong mùa giải 2023–24, Mavericks và Thunder mỗi đội có tám cầu thủ quốc tế trong đội hình của họ.[74] Từ mùa giải 2018 đến 2023, giải thưởng MVP được trao cho cầu thủ quốc tế mỗi năm.[74]

Những sự phát triển khác sửa

Các đội bóng sửa

Bản mẫu:NBA labeled map

Ánh xạ tất cả các tọa độ bằng cách sử dụng: OpenStreetMap 
Tải xuống tọa độ dưới dạng: KML

NBA bắt nguồn từ năm 1946 với 11 đội và thông qua một loạt các lần mở rộng, cắt giảm và chuyển địa điểm hiện có 30 đội. Hoa Kỳ là sân nhà của 29 đội; duy chỉ có Toronto Raptors đặt đại bản doanh ở Canada.

Tổ chức giải đấu hiện tại chia 30 đội thành hai miền gồm ba khu vực mỗi miền, năm đội mỗi khu vực. Sự liên kết giữa các bộ phận hiện tại đã được giới thiệu trong mùa giải 2004–05. Phản ánh sự phân bổ dân số của Hoa Kỳ và Canada nói chung, hầu hết các đội đều ở nửa phía đông của đất nước: 13 đội ở miền Đông, 9 ở miền Trung, 3 ở miền Núi, và 5 ở khu vực Thái Bình Dương.

Khu vực Đội Địa điểm Nhà thi đấu Sức chứa Tọa độ Thành lập Gia nhập
Liên đoàn miền Đông
Đại Tây Dương Boston Celtics Boston, Massachusetts TD Garden 19,156 42°21′59″B 71°03′44″T / 42,366303°B 71,062228°T / 42.366303; -71.062228 (Boston Celtics) 1946
Brooklyn Nets Thành phố New York, New York Barclays Center 17,732 40°40′58″B 73°58′29″T / 40,68265°B 73,974689°T / 40.68265; -73.974689 (Brooklyn Nets) 1967* 1976
New York Knicks Madison Square Garden 19,812 40°45′02″B 73°59′37″T / 40,750556°B 73,993611°T / 40.750556; -73.993611 (New York Knicks) 1946
Philadelphia 76ers Philadelphia, Pennsylvania Wells Fargo Center 20,478 39°54′04″B 75°10′19″T / 39,901111°B 75,171944°T / 39.901111; -75.171944 (Philadelphia 76ers) 1946* 1949
Toronto Raptors Toronto, Ontario Scotiabank Arena 19,800 43°38′36″B 79°22′45″T / 43,643333°B 79,379167°T / 43.643333; -79.379167 (Toronto Raptors) 1995
Trung Chicago Bulls Chicago, Illinois United Center 20,917 41°52′50″B 87°40′27″T / 41,880556°B 87,674167°T / 41.880556; -87.674167 (Chicago Bulls) 1966
Cleveland Cavaliers Cleveland, Ohio Rocket Mortgage FieldHouse 19,432 41°29′47″B 81°41′17″T / 41,496389°B 81,688056°T / 41.496389; -81.688056 (Cleveland Cavaliers) 1970
Detroit Pistons Detroit, Michigan Little Caesars Arena 20,332 42°20′28″B 83°03′18″T / 42,341111°B 83,055°T / 42.341111; -83.055 (Detroit Pistons) 1941* 1948
Indiana Pacers Indianapolis, Indiana Gainbridge Fieldhouse 17,923 39°45′50″B 86°09′20″T / 39,763889°B 86,155556°T / 39.763889; -86.155556 (Indiana Pacers) 1967 1976
Milwaukee Bucks Milwaukee, Wisconsin Fiserv Forum 17,341 43°02′37″B 87°55′01″T / 43,043611°B 87,916944°T / 43.043611; -87.916944 (Milwaukee Bucks) 1968
Đông Nam Atlanta Hawks Atlanta, Georgia State Farm Arena 16,600 33°45′26″B 84°23′47″T / 33,757222°B 84,396389°T / 33.757222; -84.396389 (Atlanta Hawks) 1946* 1949
Charlotte Hornets Charlotte, North Carolina Spectrum Center 19,077 35°13′30″B 80°50′21″T / 35,225°B 80,839167°T / 35.225; -80.839167 (Charlotte Hornets) 1988*
Miami Heat Miami, Florida Kaseya Center 19,600 25°46′53″B 80°11′17″T / 25,781389°B 80,188056°T / 25.781389; -80.188056 (Miami Heat) 1988
Orlando Magic Orlando, Florida Amway Center 18,846 28°32′21″B 81°23′01″T / 28,539167°B 81,383611°T / 28.539167; -81.383611 (Orlando Magic) 1989
Washington Wizards Washington, D.C. Capital One Arena 20,356 38°53′53″B 77°01′15″T / 38,898056°B 77,020833°T / 38.898056; -77.020833 (Washington Wizards) 1961*
Liên đoàn miền Tây
Tây Bắc Denver Nuggets Denver, Colorado Ball Arena 19,520 39°44′55″B 105°00′27″T / 39,748611°B 105,0075°T / 39.748611; -105.0075 (Denver Nuggets) 1967 1976
Minnesota Timberwolves Minneapolis, Minnesota Target Center 18,798 44°58′46″B 93°16′34″T / 44,979444°B 93,276111°T / 44.979444; -93.276111 (Minnesota Timberwolves) 1989
Oklahoma City Thunder Oklahoma City, Oklahoma Paycom Center 18,203 35°27′48″B 97°30′54″T / 35,463333°B 97,515°T / 35.463333; -97.515 (Oklahoma City Thunder) 1967*
Portland Trail Blazers Portland, Oregon Moda Center 19,393 45°31′54″B 122°40′00″T / 45,531667°B 122,666667°T / 45.531667; -122.666667 (Portland Trail Blazers) 1970
Utah Jazz Salt Lake City, Utah Delta Center 18,306 40°46′06″B 111°54′04″T / 40,768333°B 111,901111°T / 40.768333; -111.901111 (Utah Jazz) 1974*
Thái Bình Dương Golden State Warriors San Francisco, California Chase Center 18,064 37°46′05″B 122°23′15″T / 37,768056°B 122,3875°T / 37.768056; -122.3875 (Golden State Warriors) 1946*
Los Angeles Clippers Los Angeles, California Crypto.com Arena 19,079 34°02′35″B 118°16′02″T / 34,043056°B 118,267222°T / 34.043056; -118.267222 (Los Angeles Clippers) 1970*
Los Angeles Lakers 34°02′35″B 118°16′02″T / 34,043056°B 118,267222°T / 34.043056; -118.267222 (Los Angeles Lakers) 1947* 1948
Phoenix Suns Phoenix, Arizona Footprint Center 16,645 33°26′45″B 112°04′17″T / 33,445833°B 112,071389°T / 33.445833; -112.071389 (Phoenix Suns) 1968
Sacramento Kings Sacramento, California Golden 1 Center 17,608 38°38′57″B 121°31′05″T / 38,649167°B 121,518056°T / 38.649167; -121.518056 (Sacramento Kings) 1923* 1948
Tây Nam Dallas Mavericks Dallas, Texas American Airlines Center 19,200 32°47′26″B 96°48′37″T / 32,790556°B 96,810278°T / 32.790556; -96.810278 (Dallas Mavericks) 1980
Houston Rockets Houston, Texas Toyota Center 18,055 29°45′03″B 95°21′44″T / 29,750833°B 95,362222°T / 29.750833; -95.362222 (Houston Rockets) 1967*
Memphis Grizzlies Memphis, Tennessee FedExForum 18,119 35°08′18″B 90°03′02″T / 35,138333°B 90,050556°T / 35.138333; -90.050556 (Memphis Grizzlies) 1995*
New Orleans Pelicans New Orleans, Louisiana Smoothie King Center 16,867 29°56′56″B 90°04′55″T / 29,948889°B 90,081944°T / 29.948889; -90.081944 (New Orleans Pelicans) 2002*
San Antonio Spurs San Antonio, Texas AT&T Center 18,418 29°25′37″B 98°26′15″T / 29,426944°B 98,4375°T / 29.426944; -98.4375 (San Antonio Spurs) 1967* 1976
Ghi chú
  1. Dấu hoa thị (*) biểu thị một động thái nhượng quyền thương mại. Xem các bài viết nhóm tương ứng để biết thêm thông tin.
  2. Fort Wayne Pistons, Minneapolis LakersRochester Royals đều gia nhập NBA (BAA) vào năm 1948 từ NBL.
  3. Syracuse NationalsTri-Cities Blackhawks gia nhập NBA vào năm 1949 như một phần của sự sáp nhập BAA-NBL.
  4. Indiana Pacers, New York Nets, San Antonio Spurs, và Denver Nuggets đều gia nhập NBA vào năm 1976 như một phần của sự sát nhập ABA-NBA.
  5. Charlotte Hornets được coi là phần tiếp theo của nhượng quyền thương mại Charlotte ban đầu, tạm dừng hoạt động vào năm 2002 và gia nhập lại giải đấu vào năm 2004. Họ được biết đến với cái tên Bobcats từ năm 2004 đến 2014. New Orleans Pelicans được coi là được thành lập như một đội mở rộng vào năm 2002, ban đầu được gọi là New Orleans Hornets cho đến năm 2013.

Mùa giải thường sửa

Giải được chia thành 2 liên đoàn (Miền), Đông và Tây. Mỗi liên đoàn được chia thành 3 khu vực, mỗi khu vực 5 đội. Các đội sẽ thi đấu 3 giai đoạn: Trước mùa giải (Preseason), mùa chính (Regular Season) và Playoff.

  • Trước mùa giải: Thi đấu ngẫu nhiên không xếp hạng và có thể với các đội nước ngoài.
  • Mùa chính: Mỗi đội sẽ thi đấu 82 trận, 4 trận với các đội trong cùng khu vực, 3-4 trận với các đội trong miền (đấu 4 trận với 6 đội và 3 trận với 4 đội còn lại, tùy sắp xếp của giải theo từng năm), 2 trận với các đội miền bên kia. Hết giai đoạn chính, 8 đội xếp hạng cao nhất mỗi miền sẽ vào vòng playoff. Có giải thưởng dành cho đội thi đấu mùa giải chính tốt nhất, tuy nhiên giải này không quan trọng bằng chiếc cúp cuối mùa.
    • Giải đấu in-season: Bắt đầu từ mùa giải 2023–24, NBA triển khai giải đấu in-season lấy cảm hứng từ các giải đấu cúp của bóng đá châu Âu. 30 đội được chia làm 6 bảng đấu (mỗi miền 3 bảng), mỗi bảng 5 đội (Lưu ý: Các bảng đấu không đồng nhất với các khu vực), thi đấu vòng tròn 1 lượt tính điểm (mỗi đội thi đấu 2 trận sân nhà và 2 trận sân khách) chọn ra 6 đội nhất bảng và 2 đội nhì bảng có thành tích tốt nhất (mỗi miền 1 đội) vào vòng loại trực tiếp. Lưu ý quan trọng: Toàn bộ kết quả của giải này (trừ trận chung kết) cũng được tính vào bảng xếp hạng của mùa giải chính. Do vậy, NBA sẽ điều chỉnh số trận theo khung gốc sao cho phù hợp với giải đấu. 22 đội bị loại ở vòng bảng sẽ thi đấu thêm 2 trận (bù cho 2 lượt trận tứ kết và bán kết) với 2 đội khác nhau cũng bị loại từ vòng bảng (1 trận sân nhà và 1 trận sân khách). 4 đội bị loại ở tứ kết sẽ bắt cặp đối đầu với nhau (bù cho lượt trận bán kết).
  • Play-in: Đây là giai đoạn đặc biệt được xuất hiện lần đầu tiên ờ mùa giải 2019-20, do ảnh hưởng của Đại dịch COVID-19 tại Hoa Kỳ.
    • Năm 2020, trong trường hợp đội xếp thứ 9 kém đội xếp thứ 8 tối đa 4 trận, 2 đội sẽ thi đấu theo thể thức Bo3 - Best of 3 (3 trận thắng 2, tức đội nào thắng 2 trận trước sẽ là đội đi tiếp). Trong đó, đội xếp thứ 8 sẽ có lợi thế dẫn 1-0.
    • Năm 2021, các đội xếp từ thứ 7 đến thứ 10 ở mỗi miền sẽ thi đấu vòng Play-in theo thể thức nhánh thắng - nhánh thua:
      • Vòng 1 Nhánh thắng: Đội xếp thứ 7 vs Đội xếp thứ 8: Đội thắng vào vòng Playoffs với tư cách là hạt giống số 7 của miền, đội thua xuống vòng 2 nhánh thua.
      • Vòng 1 Nhánh thua: Đội xếp thứ 9 vs Đội xếp thứ 10: Đội thắng vào vòng 2 nhánh thua, đội thua bị loại.
      • Vòng 2 Nhánh thua: Thua Vòng 1 Nhánh thắng vs Thắng Vòng 1 Nhánh thua: Đội thắng vào vòng Playoffs với tư cách là hạt giống số 8 của miền, đội thua bị loại.
    • Các cặp trận thi đấu theo thể thức Bo1 (tức là thi đấu 1 trận duy nhất).
  • Playoffs: 8 đội mỗi miền sẽ thi đấu với nhau, 2 miền thi đấu playoff riêng biệt. Đội xếp hạng 1 đấu với hạng 8 (thứ hạng hạt giống dựa trên thành tích mùa chính), 2 đấu với 7, 3 đấu với 6, 4 đấu với 5. Đội thắng trong mỗi cặp sẽ vào bán kết miền. 2 đội thắng trận bán kết sẽ vào chung kết miền. Đội vô địch 2 miền Tây và Đông sẽ thi đấu Chung kết tổng (NBA Finals) để xác định đội vô địch. Tất cả các vòng sẽ thi đấu theo thể thức Bo7 - Best of 7 (7 trận thắng 4, tức đội nào thắng 4 trận mỗi vòng trước sẽ là đội thắng vòng đó, áp dụng cho cả Chung kết tổng NBA). Lợi thế sân nhà (thi đấu tối đa 4 trận trên sân nhà) sẽ được dành cho đội xếp hạng hạt giống cao hơn.

Playoff sửa

Nhà vô địch sửa

Los Angeles LakersBoston Celtics đều có nhiều chức vô địch nhất với việc mỗi đội có 17 lần vô địch NBA Finals. Golden State WarriorsChicago Bulls lần lượt đứng thứ ba và thứ tư với bảy và sáu danh hiệu.

Đội Thắng Thua Tổng cộng Năm vô địch Năm á quân
Minneapolis/Los Angeles Lakers 17 15 32 1949, 1950, 1952, 1953, 1954, 1972, 1980, 1982, 1985, 1987, 1988, 2000, 2001, 2002, 2009, 2010, 2020 1959, 1962, 1963, 1965, 1966, 1968, 1969, 1970, 1973, 1983, 1984, 1989, 1991, 2004, 2008
Boston Celtics 17 5 22 1957, 1959, 1960, 1961, 1962, 1963, 1964, 1965, 1966, 1968, 1969, 1974, 1976, 1981, 1984, 1986, 2008 1958, 1985, 1987, 2010, 2022
Philadelphia/San Francisco/Golden State Warriors 7 5 12 1947, 1956, 1975, 2015, 2017, 2018, 2022 1948, 1964, 1967, 2016, 2019
Chicago Bulls 6 0 6 1991, 1992, 1993, 1996, 1997, 1998
San Antonio Spurs 5 1 6 1999, 2003, 2005, 2007, 2014 2013
Syracuse Nationals/Philadelphia 76ers 3 6 9 1955, 1967, 1983 1950, 1954, 1977, 1980, 1982, 2001
Fort Wayne/Detroit Pistons 3 4 7 1989, 1990, 2004 1955, 1956, 1988, 2005
Miami Heat 3 4 7 2006, 2012, 2013 2011, 2014, 2020, 2023
New York Knicks 2 6 8 1970, 1973 1951, 1952, 1953, 1972, 1994, 1999
Houston Rockets 2 2 4 1994, 1995 1981, 1986
Milwaukee Bucks 2 1 3 1971, 2021 1974
Cleveland Cavaliers 1 4 5 2016 2007, 2015, 2017, 2018
St. Louis/Atlanta Hawks 1 3 4 1958 1957, 1960, 1961
Baltimore/Washington Bullets (bây giờ là Washington Wizards) 1 3 4 1978 1971, 1975, 1979
Seattle SuperSonics/Oklahoma City Thunder 1 3 4 1979 1978, 1996, 2012
Portland Trail Blazers 1 2 3 1977 1990, 1992
Dallas Mavericks 1 1 2 2011 2006
Baltimore Bullets (gốc) (giải thể năm 1954) 1 0 1 1948
Rochester Royals (bây giờ là Sacramento Kings) 1 0 1 1951
Toronto Raptors 1 0 1 2019
Denver Nuggets 1 0 1 2023
Phoenix Suns 0 3 3 1976, 1993, 2021
Utah Jazz (trước đây là New Orleans Jazz) 0 2 2 1997, 1998
New Jersey Nets (bây giờ là Brooklyn Nets) 0 2 2 2002, 2003
Orlando Magic 0 2 2 1995, 2009
Chicago Stags (giải thể năm 1950) 0 1 1 1947
Washington Capitols (giải thể năm 1951) 0 1 1 1949
Indiana Pacers 0 1 1 2000

Các đội hiện tại chưa từng tham dự NBA Finals:

Truyền thông đưa tin sửa

Các giải đấu quốc tế sửa

Giá vé và nhân khẩu học người xem sửa

Tranh cãi và chỉ trích sửa

Những người đáng chú ý sửa

NBA Cares sửa

Xem thêm sửa

Ghi chú sửa

Tham khảo sửa

  1. ^ a b “This Date in the NBA: June”. National Basketball Association. Truy cập 4 Tháng Ba năm 2022. June 6, 1946–The National Basketball Association was founded at the Commodore Hotel in New York. Maurice Podoloff was the league's first president, a title later changed to commissioner.
  2. ^ “NBA Directories” (PDF). National Basketball Association. 17 tháng 10 năm 2019. Bản gốc (PDF) lưu trữ 26 tháng Mười năm 2019. Truy cập 24 Tháng hai năm 2022.
  3. ^ Rathborn, Jack (18 tháng 11 năm 2020). “NBA Draft 2020: What time does it start in the UK, who has the No 1 pick and how can I watch it?”. The Independent. Lưu trữ bản gốc 18 Tháng sáu năm 2022. Truy cập 10 Tháng mười hai năm 2020. The 2020 NBA Draft is here after days of juicy gossip surrounding trades as the world's greatest basketball league dominates the headlines during its offseason.
  4. ^ “This Date in the NBA: August”. National Basketball Association. Truy cập 14 Tháng sáu năm 2020.
  5. ^ “The World's Highest-Paid Athletes 2020”. Forbes.
  6. ^ “REVEALED: The world's best paid teams, Man City close in on Barca and Real Madrid”. SportingIntelligence.com. 1 tháng 5 năm 2012. Truy cập 11 Tháng sáu năm 2012.
  7. ^ Gaines, Cork. “The NBA is the highest-paying sports league in the world”. Business Insider. Truy cập 20 tháng Năm năm 2015.
  8. ^ “Members of USA Basketball”. USAB.com. Truy cập 14 Tháng sáu năm 2020.
  9. ^ Mathewson, TJ (7 tháng 3 năm 2019). “TV is biggest driver in global sport league revenue”. GlobalSportMatters.com. Truy cập 25 Tháng mười hai năm 2020.
  10. ^ “NBA.com - History of Basketball in Canada”. web.archive.org. 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập 25 Tháng Ba năm 2024.
  11. ^ a b Sachare, Alex; Erving, Julius; Stern, David J.; National Basketball Association biên tập (1994). The official NBA basketball encyclopedia . New York: Villard Books. ISBN 978-0-679-43293-7. |ấn bản= có văn bản dư (trợ giúp)
  12. ^ Board, Advance Media NY Editorial (28 tháng 11 năm 2021). “NBA's bogus birthday sweeps Syracuse's contributions under the confetti (Editorial Board Opinion, Video)”. syracuse (bằng tiếng Anh). Truy cập 25 Tháng Ba năm 2024.
  13. ^ “NBA is born”. HISTORY (bằng tiếng Anh). Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.
  14. ^ a b “Sumner grad Harold Hunter, first African-American to sign with NBA team, dies at 86 - KansasCity.com”. web.archive.org. 12 tháng 3 năm 2013. Truy cập 25 Tháng Ba năm 2024.
  15. ^ “NBA pioneer Harold Hunter, an ex-Xavier coach, died Thursday”.
  16. ^ “Former Tennessee State basketball coach Harold Hunter dies | Nashville City Paper”. web.archive.org. 2 tháng 11 năm 2013. Truy cập 25 Tháng Ba năm 2024.
  17. ^ “1949–51: Lakers Win First NBA Finals”.
  18. ^ “NBA Rules History”.
  19. ^ Journal, Providence (1 tháng 12 năm 1991). “RUSSELL VS. CHAMBERLAIN: A RIVALRY FOR THE AGES”. Chicago Tribune (bằng tiếng Anh). Truy cập 25 Tháng Ba năm 2024.
  20. ^ “Championship Wins”.
  21. ^ Salzberg, Charles (1998). From set shot to slam dunk: the glory days of basketball in the words of those who played it. Lincoln: University of Nebraska Press. ISBN 978-0-8032-9250-5.
  22. ^ a b “That iconic NBA silhouette can be traced back to him - Los Angeles Times”. web.archive.org. 29 tháng 4 năm 2010. Truy cập 26 Tháng Ba năm 2024.
  23. ^ “New Twist in NBA: the 3-Point Goal”.
  24. ^ a b “ESPN.com - ENDOFCENTURY - Katz: Magic and Bird did it all”. www.espn.com. Truy cập 26 Tháng Ba năm 2024.
  25. ^ “NBA News, Rumors, Scores, Standings & Stats”. FOX Sports (bằng tiếng Anh). Truy cập 26 Tháng Ba năm 2024.
  26. ^ Archives, L. A. Times (13 tháng 8 năm 1989). “Bird's Salary Projected at $6 Million in '91-'92”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Truy cập 26 Tháng Ba năm 2024.
  27. ^ Baker, Chris (8 tháng 11 năm 1988). “NBA: A Season Begins : Price of a Starting NBA Franchise Is Up to $32.5 Million”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Truy cập 26 Tháng Ba năm 2024.
  28. ^ Burns, Scott. “Top 5 Performances in NBA 3-Point Contest History”. Bleacher Report (bằng tiếng Anh). Truy cập 26 Tháng Ba năm 2024.
  29. ^ “David Stern becomes fourth NBA Commissioner, 1984 - 2012-10-25 - David Stern's Impact on the NBA”. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập 26 Tháng Ba năm 2024.
  30. ^ Zillgitt, Jeff. “David Stern leaves as 'No. 1 reason' for NBA success”. USA TODAY (bằng tiếng Anh). Truy cập 26 Tháng Ba năm 2024.
  31. ^ “NBA Commissioner Stern Helped League Grow”.
  32. ^ “June 20, 1984: Apologetic Bulls 'stuck' with Michael Jordan”.
  33. ^ “NBA '89–90; Turnovers, 2 More Teams And Questions”.
  34. ^ “Daly dies at 78; led Pistons to titles, U.S. to gold”. ESPN.com (bằng tiếng Anh). 9 tháng 5 năm 2009. Truy cập 26 Tháng Ba năm 2024.
  35. ^ “The New York Times: This Day In Sports”. archive.nytimes.com. Truy cập 26 Tháng Ba năm 2024.
  36. ^ “Repeat 3-Peat, Bulls Win Again! - CBS News”. www.cbsnews.com (bằng tiếng Anh). 14 tháng 6 năm 1998. Truy cập 26 Tháng Ba năm 2024.
  37. ^ Sports, Houston Chronicle. “Flashback: Rockets sweep Magic for 2nd straight NBA crown”. Houston Chronicle (bằng tiếng Anh). Truy cập 26 Tháng Ba năm 2024.
  38. ^ Davis, Scott. “WHERE ARE THEY NOW? The 1992 Dream Team that dominated Olympic basketball”. Business Insider (bằng tiếng Anh). Truy cập 26 Tháng Ba năm 2024.
  39. ^ “25 facts to celebrate the Dream Team 25 years later”. Chicago Sun-Times (bằng tiếng Anh). 28 tháng 7 năm 2017. Truy cập 26 Tháng Ba năm 2024.
  40. ^ “NBA commissioner Adam Silver praises Toronto, but says no more Canadian teams”.
  41. ^ “PRO BASKETBALL;Now Playing in the N.B.A., the Raptors and the Grizzlies”.
  42. ^ “As W.N.B.A. Opens Its 20th Season, Key Figures Recall the First Game”.
  43. ^ “BASKETBALL; It's Their Ball, and N.B.A. Owners Call for Lockout”.
  44. ^ Johnson, Martin (30 tháng 6 năm 2011). “Reasons to Be Optimistic About the NBA Lockout”. The Atlantic (bằng tiếng Anh). Truy cập 27 Tháng Ba năm 2024.
  45. ^ Mendoza, By Madalyn. “On this day in San Antonio history: The Spurs won their first NBA Championship 19 years ago”. MySA (bằng tiếng Anh). Truy cập 27 Tháng Ba năm 2024.
  46. ^ a b Prunty, Brendan (1 tháng 2 năm 2017). Basketball's Game Changers: Icons, Record Breakers, Rivalries, Scandals, and More (bằng tiếng Anh). Rowman & Littlefield. ISBN 978-1-4930-2699-9.
  47. ^ “Wayback Machine” (PDF). web.archive.org. Truy cập 27 Tháng Ba năm 2024. Chú thích có tiêu đề chung (trợ giúp)
  48. ^ “Redemption: Bryant leads Lakers to 15th NBA title”.
  49. ^ “Lakers edge Celtics in Game 7, win 16th title - NBA - Yahoo! Sports”. web.archive.org. 5 tháng 8 năm 2011. Truy cập 27 Tháng Ba năm 2024.
  50. ^ “Basketball record 108,713 watch All-Star Game”. ESPN.com (bằng tiếng Anh). 15 tháng 2 năm 2010. Truy cập 27 Tháng Ba năm 2024.
  51. ^ “NBA, referees agree to two-year deal, ending lockout”.
  52. ^ “NBA referees approve 2-year labor agreement”. ESPN.com (bằng tiếng Anh). 23 tháng 10 năm 2009. Truy cập 27 Tháng Ba năm 2024.
  53. ^ “NBA cancels first two weeks of regular season”. ESPN.com (bằng tiếng Anh). 10 tháng 10 năm 2011. Truy cập 27 Tháng Ba năm 2024.
  54. ^ “N.B.A. Owners and Players Ratify Labor Deal”.
  55. ^ “Silver takes over as commissioner from Stern”.
  56. ^ “Top Moments: Warriors set record with 73-win season”. NBA.com (bằng tiếng Anh). Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.
  57. ^ “A timeline of LeBron James' eight consecutive NBA Finals appearances”. CBSSports.com (bằng tiếng Anh). 10 tháng 6 năm 2018. Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.
  58. ^ “Toronto Raptors beat Golden State Warriors for first NBA title”. NBC News (bằng tiếng Anh). 14 tháng 6 năm 2019. Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.
  59. ^ Reynolds, Tim (11 tháng 3 năm 2020). “NBA suspends season after Utah Jazz player tests positive for COVID-19”. CTVNews (bằng tiếng Anh). Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.
  60. ^ “N.B.A. Suspends Season After Player Tests Positive for Coronavirus”.
  61. ^ “NBA Board of Governors approves competitive format to restart 2019-20 season with 22 teams returning to play”. NBA.com (bằng tiếng Anh). Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.
  62. ^ Mannix, Chris (21 tháng 7 năm 2020). “Free From Quarantine: The NBA Bubble Is A Unique Experience”. Sports Illustrated (bằng tiếng Anh). Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.
  63. ^ Harris, Mary (22 tháng 7 năm 2020). “The Bizarre Stories of Everyday Life Within the NBA Bubble”. Slate (bằng tiếng Anh). ISSN 1091-2339. Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.
  64. ^ “Game 1 of NBA Finals sees lowest viewership in recorded ratings history”. Yahoo Sports (bằng tiếng Anh). 1 tháng 10 năm 2020. Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.
  65. ^ “NBA Ratings Drop: New Poll Reveals Main Reason Why - Game 7” (bằng tiếng Anh). 8 tháng 9 năm 2020. Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.
  66. ^ Amico, Sam (1 tháng 10 năm 2020). “Insider: NBA's historic TV ratings lows come with 'obvious caveats'. Sports Illustrated Cleveland Cavs News, Analysis and More (bằng tiếng Anh). Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.
  67. ^ Amico, Sam (4 tháng 9 năm 2020). “NBA first-round ratings drop 27 percent, 40 percent since 2017-18”. Sports Illustrated Cleveland Cavs News, Analysis and More (bằng tiếng Anh). Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.
  68. ^ “NBA On ABC Ratings Down 45 Percent Compared To 11-12 Season”. basketball.realgm.com. Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.
  69. ^ “The Milwaukee Bucks Win the N.B.A. Championship”.
  70. ^ Vardon, Joe. “Warriors win 2022 NBA title, defeat Celtics in 6”. The Athletic (bằng tiếng Anh). Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.
  71. ^ Fuente, Steve Almasy,Homero De la (13 tháng 6 năm 2023). “Denver Nuggets win first NBA championship title in Game 5 victory over Miami Heat”. CNN (bằng tiếng Anh). Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.
  72. ^ “Record 92 foreign players on NBA rosters to start season”. NBC Sports (bằng tiếng Anh). 29 tháng 10 năm 2013. Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.
  73. ^ “NBA rosters feature 108 international players from record 42 countries and territories”. NBA.com (bằng tiếng Anh). Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.
  74. ^ a b “Record 125 international players on NBA rosters”. ESPN.com (bằng tiếng Anh). 24 tháng 10 năm 2023. Truy cập 28 Tháng Ba năm 2024.

Liên kết ngoài sửa