Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kỷ Phấn Trắng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n chú thích, replaced: {{cite book → {{chú thích sách (2)
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
'''Kỷ Phấn trắng''' hay '''kỷ Creta''' là một đơn vị chính trong [[niên đại địa chất]], bắt đầu từ khi kết thúc [[kỷ Jura]] khoảng 145,5 ± 4,0 triệu năm trước (Ma) cho đến khi bắt đầu [[thế Paleocen]] của [[phân đại Đệ tam|phân đại đệ Tam]] vào khoảng 65,5 ± 0,3 Ma. Là kỷ địa chất dài nhất trong [[đại Trung sinh|đại Trung Sinh]], kỷ Creta chiếm khoảng gần một nửa thời gian của đại này. Sự kết thúc của kỷ Creta xác định ranh giới giữa đại Trung Sinh và [[đại Tân sinh|đại Tân Sinh]] (''Cenozoic'').
 
Kỷ Creta có nguồn gốc từ [[latinh|tiếng Latinh]] ''creta'' với nghĩa là ''[[đá phấn]]'' hay ''[[canxi cacbonat|phấn trắng]]'' là một kỷ tách biệt lần đầu tiên được nhà địa chất người [[Bỉ]] [[Jean Baptiste Julien d'Omalius d'Halloy|Jean d'Omalius d'Halloy]] định nghĩa năm [[1822]], sử dụng [[địa tầng]] trong [[lòng chảo Paris (địa chất)|lòng chảo Paris]]<ref>{{chú thích sách|title=[[Đại Từ điển bách khoa Xô viết]]|publisher=Sovetskaya Enciklopediya|edition=3|pages=tập 16, trang 50|year=1974|location=Moskva|language=tiếng Nga}}</ref> và đặt tên cho các tầng đá phấn trải rộng ([[canxi cacbonat|cacbonat canxi]] đã trầm lắng từ vỏ hay mai của các [[động vật không xương sống]] đại dương, chủ yếu là [[coccolith]]), được tìm thấy trong các tầng đá Thượng Creta của [[châu Âu]] lục địa và [[quần đảo Anh]] (bao gồm cả [[vách đá trắng Dover]]).
== Niên đại ==
Giống như các kỷ địa chất cổ hơn, các tầng đá xác định kỷ Creta đã được xác định khá rõ nhưng niên đại chính xác của sự khởi đầu và kết thúc kỷ này vẫn không chắc chắn trong phạm vi vài triệu năm. Không có sự kiện [[tuyệt chủng]] lớn hay sự bùng nổ tính đa dạng nào tách rời kỷ Creta ra khỏi kỷ Jura trước đó. Tuy nhiên, sự kết thúc kỷ này được xác định chắc chắn nhất, được đặt tại các lớp giàu [[iridi]] tìm thấy trên khắp thế giới được cho là gắn liền với [[miệng núi lửa Chicxulub]] tại [[Yucatan]] và [[vịnh Mexico]]. Lớp đá này đã được xác định niên đại là khoảng 65,5 Ma. Sự va chạm [[sao băng]] này có lẽ là nguyên nhân chính gây ra sự kiện tuyệt chủng lớn là [[sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta-Paleogen|sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta-phân đại đệ Tam]] đã được nghiên cứu rộng rãi.
== Các đơn vị ==
Kỷ Creta thông thường được phân chia thành các [[thế (địa chất)|thế]] [[Creta sớm]] và [[Creta muộn|muộn]]. Các [[bậc (địa tầng)|tầng động vật]] từ trẻ nhất tới cổ nhất được liệt kê dưới đây; thời gian được coi là sớm hay muộn, còn các tầng đá tương ứng được coi là hạ hay thượng:
{|
| '''Creta Thượng/Muộn'''
Dòng 51:
 
== Cổ địa lý học ==
Trong kỷ Creta, siêu lục địa [[Pangaea]] có từ cuối [[đại Cổ sinh|đại Cổ Sinh]] – đầu đại Trung Sinh đã hoàn thành việc chia tách nó ra thành các châu lục như ngày nay, mặc dù vị trí của chúng là khác đáng kể so với hiện nay. Khi [[Đại Tây Dương]] mở rộng ra, các kiến tạo sơn lề hội tụ đã bắt đầu từ kỷ Jura vẫn tiếp tục tại [[dãy núi Bắc Mỹ]], chẳng hạn [[kiến tạo sơn Nevada]] đã được kế tiếp bởi các [[kiến tạo sơn]] như [[kiến tạo sơn Sevier]] và [[kiến tạo sơn Laramide|Laramide]].
 
[[Tập tin:Cretaceous Seaway.jpg|nhỏ|375px|Địa lý Bắc Mỹ trong kỷ Creta]]
 
Mặc dù [[Gondwana]] vẫn không bị ảnh hưởng vào đầu kỷ Creta, nhưng tự nó đã tách ra do [[Nam Mỹ]], [[châu Nam Cực]] và [[Úc|Australia]] đã trôi dạt ra khỏi [[châu Phi]] (mặc dù [[Ấn Độ]] và [[Madagascar]] vẫn còn dính với nhau); vì thế, [[Ấn Độ Dương]] và phần phía nam của Đại Tây Dương là các đại dương mới được hình thành. Hoạt động trôi dạt như vậy đã nâng các chuỗi núi lớn ngầm dưới biển dọc theo các đường viền, nâng [[mực nước biển|mực nước biển chấn tĩnh]] trên khắp thế giới. Về phía bắc của châu Phi thì [[đại dương Tethys|biển Tethys]] tiếp tục thu hẹp lại. Các biển nông rộng lớn chiếm ưu thế dọc theo miền trung [[Bắc Mỹ]] ([[biển nội địa miền Tây]]) và châu Âu, và sau đó bắt đầu rút xuống, để lại các trầm tích đại dương dày xen vào giữa các tầng [[than (định hướng)|than]].
 
Kỷ Creta chính xác là nổi tiếng vì đá phấn của nó; thực vậy, đã có nhiều đá phấn được hình thành trong kỷ này hơn so với bất kỳ thời kỳ nào của [[liên đại Hiển sinh|liên đại Hiển Sinh]]<ref>Stanley Steven M. ''Earth System History.'' New York: W.H. Freeman và Công ty, 1999. ISBN 0-7167-2882-6 trang 280</ref>. Hoạt động tạo [[lằn gợn đại dương]]—hay đúng hơn là, sự lưu thông của nước biển qua các lằn gợn mở rộng—làm giàu thêm [[canxi]] cho các đại dương; điều này làm cho nước biển trở nên bão hòa hơn, cũng như làm tăng hiệu lực sinh học của nguyên tố này đối với các [[Coccolithophores|tảo phù du đá vôi]]<ref>Stanley, các trang 279-81</ref>. Chúng làm loang rộng các trầm tích [[cacbonat]] cũng như các loại trầm tích khác, làm cho các mẫu đá kỷ Creta là đặc biệt mịn. Famous [[Geologic formation|formations]] từ Bắc Mỹ bao gồm các hóa thạch đại dương phong phú ở đối Smoky tại [[Kansas]] và quần động vật đất liền cuối kỷ Creta tại [[hình thành sông Hell]]. Các hóa thạch quan trọng khác có tại châu Âu và [[Trung Quốc]]. Tại khu vực ngày nay là Ấn Độ, các tầng dung nham khổng lồ gọi là [[Deccan Traps]] đã sụt xuống vào cuối kỷ Creta và đầu thế Paleocen.
 
== Khí hậu ==
[[Khí hậu]] là rất ấm trong kỷ Creta đến mức không có [[băng]] tại hai địa cực. Mực nước biển cao hơn nhiều so với ngày nay và các khu vực lớn của lớp vỏ Trái Đất đã bị các biển nông bao phủ; các phần lõi trầm tích chỉ ra rằng các biển nhiệt đới có thể có nhiệt độ cao hơn khoảng 9-12° so với ngày nay, trong khi nhiệt độ của lòng đại dương có thể cao hơn tới 15-20° so với ngày nay<ref>[http://www.physorg.com/news10978.html "Warmer than a Hot Tub: Atlantic Ocean Temperatures Much Higher in the Past"] [[PhysOrg.com]]. Truy cập 3/12/2006.</ref>,<ref>Skinner Brian J. và Stephen C. Porter. ''The Dynamic Earth: An Introduction to Physical Geology.'' ấn bản lần thứ 3, New York: John Wiley & Sons, Inc., 1995. ISBN 0-471-59549-7. trang 557</ref>. [[Đại dương Tethys|Biển Tethys]] đã nối các đại dương vùng nhiệt đới từ tây sang đông, điều này làm cho khí hậu toàn cầu cân bằng hơn. Các hóa thạch thực vật đã thích nghi với khí hậu nóng ấm được tìm thấy tại các khu vực xa về phía bắc tới tận [[Alaska]] và [[Greenland]], trong khi các hóa thạch [[khủng long]] cũng đã được tìm thấy trong phạm vi 15° kể từ [[Nam Cực|Nam cực]] của kỷ Creta<ref>Stanley, các trang 480-2</ref>.
 
Trái Đất về trung bình có thể không ấm nhiều hơn so với [[kỷ Tam Điệp|kỷ Trias]] hay kỷ Jura, nhưng khi đó nó có [[gradient nhiệt độ]] thoai thoải hơn từ xích đạo tới hai cực. Hiệu ứng phụ của điều này có thẻ làm suy yếu các luồng luân chuyển không khí (gió) toàn cầu, tạo ra ít sự chuyển động của các khối nước lạnh và giàu dinh dưỡng lên bề mặt đại dương và làm cho các đại dương trở thành tù đọng hơn so với ngày nay, với chứng cứ là các trầm tích [[đá phiến sét]] màu đen rộng khắp<ref>Stanley, các trang 481-2</ref>.
== Quần thực vật ==
[[Thực vật có hoa]] đã phát triển mạnh trong kỷ này, mặc dù chúng vẫn chưa trở thành thống trị cho đến tận gần cuối kỷ ([[tầng Champagne]]). Sự tiến hóa của chúng được trợ giúp thêm bởi sự xuất hiện của [[ong]]; trên thực tế thực vật có hoa và [[côn trùng]] là các ví dụ điển hình về [[cùng tiến hóa]]. Đại diện đầu tiên của nhiều loại cây hiện đại đã xuất hiện trong kỷ này, như các loài [[cây đa|đa]], [[Chi Tiêu huyền|tiêu huyền]] và [[mộc lan]]. Cùng thời gian đó, một vài loài [[thực vật hạt trần]] từ thời kỳ đầu [[đại Trung sinh|đại Trung Sinh]], chẳng hạn như [[ngành Thông|thông]] vẫn tiếp tục thịnh vượng, mặc dù một vài nhánh khác như bộ [[Bộ Á tuế|Bennettitales]] (dạng tuế cổ) đã biến mất trước khi kỷ này kết thúc.
== Quần động vật ==
=== Đất liền ===
Trên đất liền, [[lớp Thú|động vật có vú]] vẫn còn ít và chỉ là thành phần tương đối nhỏ của [[quần động vật]]. Quần động vật khi đó chủ yếu là các loài [[động vật bò sát|bò sát]] dạng [[thằn lằn thống trị]] (nhóm ''Archosauria''), đặc biệt là [[khủng long]], khi đó đang ở đỉnh cao đa dạng của chúng. Các loài [[bò sát bay]] (bộ ''Pterosauria'') là phổ biến ở đầu và giữa kỷ Creta, nhưng càng về cuối kỷ thì chúng lại phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gia tăng của [[chim]], và vào cuối kỷ này thì chỉ còn 2 họ thằn lằn bay chuyên biệt hóa cao là còn tồn tại.
 
[[Tập tin:Cretaceous Period Fish by dyet.jpg|nhỏ|250px|Hình ảnh cá hóa thạch thuộc kỷ Creta]]
Dòng 73:
Khu vực lưu giữ hóa thạch tại [[Liêu Ninh]], [[Trung Quốc]] cung cấp một cái nhìn tổng quan về sự sống đầu kỷ Creta. Tại đây các dấu tích còn được bảo quản của hàng loạt các loài khủng long, chim và động vật có vú nhỏ đã được phát hiện. Các loài khủng long thuộc nhóm ''[[Coelurosauria]]'' tìm thấy ở đây là đại diện cho các động vật của nhóm ''[[Maniraptora]]'' (dạng chuyển tiếp giữa khủng long và chim) và đáng chú ý vì sự hiện diện của các [[lông vũ]].
 
Trong kỷ Creta, [[côn trùng]] bắt đầu đa dạng hóa và các loài [[kiến]], [[mối]] cùng một vài loài [[Bộ Cánh vẩy|cánh vẩy]] cổ nhất đã biết đã xuất hiện. Các loài [[Siêu họ Rệp|rệp]] (siêu họ ''Aphidoidea''), [[Phân bộ Châu chấu|châu chấu]] (phân bộ ''Caelifera'') và [[ong vú lá]] (họ ''Cipnipidae'') cũng đã xuất hiện.Hàng loạt các loại hóa thạch côn trùng được bảo quản tốt cũng đã được tìm thấy trong các khu vực lưu giữ hóa thạch thời kỳ Hậu Creta tại [[Baissa]] ở khu vực [[Xibia|Siberi]].
 
=== Đại dương ===
Trong lòng đại dương, các loài [[siêu bộ Cá đuối|cá đuối]] (siêu bộ ''Batoidea''), [[cá mập]] (siêu bộ ''Selachimorpha'') hiện đại và [[phân lớp Cá xương thật sự|cá xương thật sự]] (phân lớp ''Teleostei'') đã trở thành phổ biến. Các loài bò sát biển bao gồm [[thằn lằn cá]] (bộ ''Ichthyosauria'') ở đầu và giữa kỷ Creta, [[thằn lằn đầu rắn]] (phân bộ ''Plesiosauria'') trong suốt cả kỷ và [[thằn lằn rắn]] (họ ''Mosasauridae'') ở cuối kỷ.
 
[[Baculites]], một dạng vỏ thẳng của [[phân lớp Cúc đá|cúc đá]] (phân lớp ''Ammonoidea'') cũng đã thịnh vượng trong lòng đại dương. [[Phân lớp Chim có răng|chim có răng]] (phân lớp ''Hesperornithes'') là các loài chim không bay, sống trên mặt đại dương và bơi lội giống như các loài [[bộhọ Chim lặn|chim lặn]] (bộ ''Podicipediformes''). Các loài [[Ngành Trùng lỗ|trùng lỗ]] (ngành ''Foraminifera'') và [[ngành Da gai|động vật da gai]] (ngành ''Echinodermata'') như nhím biển và [[lớp Sao biển|sao biển]] (lớp ''Asteroidea'') cũng thịnh vượng. Sự lan tỏa đầu tiên của các loài [[tảo silic|tảo cát]] (nói chung là dạng [[điôxít silic điôxít|cát]] chứ không phải dạng [[đá vôi]]) trong đại dương cũng diễn ra vào kỷ này nhưng các loài tảo cát nước ngọt mãi đến [[thế Miocen]] mới xuất hiện.
=== Tuyệt chủng ===
{{Bài chính|Sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta-phân đại đệ Tam}}
 
Trong [[sự kiện tuyệt chủng]] đánh dấu sự kết thúc kỷ Creta thì một lượng đáng kể các loài (~50%) và các họ đã biết (~25%) đã biến mất. Thực vật gần như không bị tổn thương, trong khi các sinh vật biển phải gánh chịu nặng nề nhất. Trong số đó một lượng lớn (~95%) các dạng trùng lỗ (trừ bộ ''[[Globigerinida]]''), và thậm chí một lượng lớn hơn của nhóm ''[[Coccolithophores]]'', tất cả các loài cúc đá và [[nhóm Tên đá|tên đá]] (nhóm ''Belemnoidea'') của [[lớp Chân đầu|động vật chân đầu]] (lớp ''Cephalopoda'') cũng như tất cả các nhóm [[rudists]] tạo đá ngầm của ngành [[động vật thân mềm]] (ngành ''Mollusca'') và các loài [[trai (động vật)|trai]] thuộc chi ''[[Inoceramus]]''), cũng như gần như toàn bộ bò sát biển (ngoại trừ [[bộ Rùa|rùa]] và [[cá sấu]]). Khủng long có lẽ là nạn nhân nổi tiếng nhất của sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta. Các loài khủng long còn sót lại vào gần cuối kỷ (chẳng hạn ''[[Khủng long bạo chúa|Tyrannosaurus rex]]'', ''[[Triceratops]]'' và ''[[Ankylosaurus]]'') cũng đã bị tiêu diệt. Những con thằn lằn có cánh cuối cùng cũng đã bị tuyệt chủng và phần lớn các loài chim cũng chịu chung số phận, trong đó có các phân lớp ''[[Enantiornithes]]'' và ''[[Hesperornithes]]''.
 
Sự tuyệt chủng cao độ của côn trùng diễn ra vào khoảng giữa kỷ Creta, trong [[tầng Alba]].