Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lễ ăn hỏi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{chú thích trong bài}}
{{TOCright}}
 
 
Lễ '''ăn hỏi''' còn được gọi là '''lễ đính hôn''' là một nghi thức trong phong tục [[hôn nhân]] truyền thống của [[người Việt]]. Đây là sự thông báo chính thức về việc hứa gả giữa hai họ. Đây là giai đoạn quan trọng trong quan hệ hôn nhân: cô gái trở thành "vợ sắp cưới" của chàng trai, và chàng trai sau khi mang lễ vật đến nhà gái là đã chính thức xin được nhận làm rể của nhà gái và tập gọi bố mẹ xưng con.
[[File:Vietnam engagement sign.jpg|nhỏ|phải|180px|Bảng đính hôn treo trước cửa]]
 
Trong lễ ăn hỏi, nhà trai mang lễ vật tới nhà gái. Nhà gái nhận lễ ăn hỏi tức là chính danh công nhận sự gả con gái cho nhà trai, và kể từ ngày ăn hỏi, đôi trai gái có thể coi là đôi vợ chồng chưa cưới, chỉ còn chờ ngày cưới để công bố với hai họ.
Hàng 10 ⟶ 14:
 
==Lễ vật==
 
[[Tập tin:Buong cau.JPG|nhỏ|phải|180px| Mâm trầu cau trong lễ ăn hỏi]]
[[Tập tin:Lon sua quay.JPG|nhỏ|phải|180px| Một mâm lợn sữa quay dùng trong ăn hỏi]]
[[Trầu]], [[cau]]; [[bánh cốm]]; [[mứt sen]]; [[rượu]]; [[chè]]; [[thuốc lá]]; [[bánh phu thê]] (bánh xu xê), [[bánh đậu xanh]], [[lợn sữa quay]], [[tiền dẫn cưới]] v.v.
 
Hàng 17 ⟶ 20:
 
Đó là những lễ vật tối thiểu theo tục lệ cổ truyền; tất nhiên, chất lư­ợng và số lượng thêm bớt thì tùy thuộc vào năng lực kinh tế của từng gia đình. Theo phong tục Hà Nội truyền thống thường có lợn sữa quay, còn theo phong tục miền Nam có thể có một chiếc nhẫn, một dây chuyền hay bông hoa tai đính hôn. Tuy nhiên, số lượng lễ vật nhất thiết phải là số chẵn (bội số của 2, tượng trưng cho có đôi có lứa), nhưng lễ vật đó lại được xếp trong số lẻ của tráp (số lẻ tượng trưng cho sự phát triển).
 
[[Tập tin:Do le an hoi.JPG|nhỏ|trái|250px| Một số đồ lễ ăn hỏi thông dụng]]
 
Lễ vật dẫn cưới thể hiện lòng biết ơn của nhà trai đối với công ơn dưỡng dục của cha mẹ cô gái. Nói theo cách xưa là: nhà trai bỗng dưng được thêm người, còn nhà gái thì ngược lại, "Con gái là con người ta". Mặt khác, lễ vật cũng biểu thị được sự quý mến, tôn trọng của nhà trai đối với cô dâu tương lai.
 
Trong một chừng mực nào đó, đồ dẫn cưới cũng thể hiện thiện ý của nhà trai: xin đóng góp một phần vật chất để nhà gái giảm bớt chi phí cho hôn sự. Tuy nhiên, điều này ngày nay càng lúc càng trở nên mờ nhạt xét về vai trò, vì dễ dẫn đến cảm giác về sự gả bán con, thách cưới.
 
{|
|[[Tập tin:Buong cau.JPG|nhỏ|phải|180px80px| Mâm trầu cau trong lễ ăn hỏi]]
|[[Tập tin:Banh xu xe (Vietnam).JPG|nhỏ|phải|200px|Bánh xu xê]]
|[[File:Banh com (Vietnam).JPG|nhỏ|phải|190px|Bánh cốm]]
|[[Tập tin:Lon sua quay.JPG|nhỏ|phải|180px| 150px|Một mâm lợn sữa quay dùng trong ăn hỏi]]
|}
 
==Thủ tục==
===Rước lễ vật===
[[Tập tin:Do le an hoi.JPG|nhỏ|tráiphải|250px| Một số đồmâm lễ ăn hỏi thông dụng, với trầu cau và bánh]]
Tất cả các lễ vật phải được sắp xếp gọn gàng và thẩm mỹ. Và nhất thiết phải được bày vào quả sơn son thếp vàng (hay mâm đồng đánh bóng, phủ vải đỏ). Có như thế mới nhấn mạnh được tính biểu trưng của lễ vật. Xưa, người đội lễ phải khăn áo chỉnh tề, thắt dây lưng đỏ. Nay, các cô gái đội lễ đã có [[áo dài]] đỏ thay thế nên không cần phải dùng thắt lưng đỏ nữa. Dù dùng phương tiện đi lại là: ô tô, [[xích lô]], xe máy, hay đi bộ thì đoàn ăn hỏi cũng nên dừng lại cách nhà gái khoảng l00 m, sắp xếp đội hình, rồi mới đội lễ vào nhà gái. Đây thực sự là một hình thái văn hóa dân tộc.
[[Tập tin:Ruoc le vat.JPG|nhỏ|phải|200px180px| Một đoàn rước lễ vật bên họ nhà trai]]
===Tiếp khách===
Vì đây là một lễ trọng nên nhà gái phải chuẩn bị chu đáo hơn lễ chạm mặt. Tuy nhiên, do nội dung chủ yếu của lễ này là sự bàn bạc cụ thể, chính thức của hai gia đình về việc chuẩn bị lễ cưới, nên nhà gái không bày tiệc mặn mà chỉ bày tiệc trà. Ngày nay hầu hết các gia đình gái đều chuẩn bị tiệc mặn để thết đãi gia đình trai mong tạo hòa khí gắn bó và hàn huyên. Nghi thức trao nhận lễ vật cũng nên trở thành nghi thức bắt buộc.
Hàng 40 ⟶ 49:
 
===Biếu trầu===
[[Tập tin:Don tiep trong le an hoi (Vietnam).JPG|nhỏ|phải|200px| Đại diện nhà gái chuẩn bị đón tiếp nhà trai trong lễ ăn hỏi, các cô gái nhận tráp lễ vật mặc áo dài màu đỏ]]
Xưa, sau lễ ăn hỏi, nhà gái dùng các lễ vật nhà trai đã đưa để chia ra từng gói nhỏ để làm quà biếu cho họ hàng, bè bạn, xóm giềng,... Ý nghĩa của tục này là sự loan báo: Cô gái đã có nơi có chỗ.
 
Hàng 51 ⟶ 60:
 
==Chia lễ==
[[Tập tin:Lại quả.jpg|nhỏ|tráiphải|250px150px|Một số lễ vật nhà gái [[lại quả]] cho nhà trai trong một đám cưới tổ chức tại Hải Phòng]]
Nhà gái thường nhờ các cô gái trong họ hoặc bạn bè chia giúp. Khi nhà trai dẫn lễ ăn hỏi tới nhà gái, nhà gái thường làm cơm thết đãi. Sau lễ ăn hỏi đôi bên kể là giao kết gắn bó với nhau rồi. Tuy vậy ngày xưa các cặp vị hôn phu và hôn thê cũng không được phép gặp nhau, trừ trường hợp đặc biệt lắm đôi bên cha mẹ mới cho phép. Phong tục ngày nay đổi khác, sau lễ ăn hỏi đôi trai gái thường gặp nhau luôn. Từ lễ ăn hỏi đến lễ cưới, xưa kia có khi hàng bốn năm năm, nhưng ngày nay thời gian đó thường được rút ngắn, có khi chỉ vài ba ngày.
 
Hàng 64 ⟶ 73:
*[[Lễ giạm]]
*[[Lễ vật]]
*[[Trầu]] [[cau]]
* [[Lễ cưới người Việt]]
 
==Tham khảo==