Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch giải phóng Novorossiysk”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Thay thể loại đã đổi hướng Xung đột 1942 bằng Xung đột năm 1942
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng; sửa cách trình bày
Dòng 11:
| combatant1 = {{flagicon|Nazi Germany}} [[Đức Quốc Xã]]
| combatant2 = {{flagicon|Soviet Union|1923}} [[Liên Xô]]
| commander1 = {{flagicon|Nazi Germany}}Erwin Jaenecke <br />{{flagicon|Nazi Germany}}Karl Allmendinger.
| commander2 = {{flagicon|Soviet Union|1923}} I. E. Petrov<br />{{flagicon|Soviet Union|1923}}L. A. Vladimirsky<br />{{flagicon|Soviet Union|1923}}K. N. Leselidze
| strength1 =
| strength2 =
Dòng 23:
{{FixBunching|end}}
 
'''Chiến dịch giải phóng Novorossiysk''' là cuộc tấn công chiến thuật của Tập đoàn quân 18 và Hạm đội Biển Đen (Liên Xô) từ ngày 10 đến ngày 16 tháng 9 năm 1943 để thu hồi thành phố và quân cảng Novorossiysk trong cuộc [[Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại|Chiến tranh vệ quốc vĩ đại]]. Mặc dù [[Chiến dịch Myskhako|chiến dịch đổ bộ lên Stenichka và Nam Ozereika]] hồi tháng 2 năm 1943 không thành công như quân đội Liên Xô đã đánh chiếm và giữ được đầu cầu tại khu vực Myskhko - Stenichka trong 225 ngày đêm, tạo một bàn đạp thuận lợi để tổ chức tấn công giải phóng Novorossiysk sau này và làm phân tán một phần lực lượng của Tập đoàn quân 17 (Đức) đồng thời làm cho Bộ Tổng chỉ huy tối cao quân đội Đức Quốc xã không thể sử dụng Tập đoàn quân 17 vào các hướng mặt trận khác quan trọng hơn.<ref name="grechko1-6"/>
 
Khác với chiến dịch Myskhako, cuộc tấn công giải phóng Novorossyisk trung tuần tháng tháng 9 năm 1943 diễn ra với sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa Phương diện quân Bắc Kavkaz với Hải quân hạm đội Biển Đen và không quân Liên Xô. Mặt khác, chiến dịch giải phóng Novorossiysk tháng 9 năm 1943 còn nằm trong một kế hoạch hoạt động quân sự chung của toàn bộ Phương diện quân Bắc Kavkaz để giải phóng hoàn toàn bán đảo Taman. Điều này đã làm cho Tập đoàn quân 17 (Đức) không thể chủ động điều lực lượng đi ứng cứu cho các hướng bị uy hiếp khi họ bị tấn công đồng loạt trên toàn tuyến mặt trận và từ phía biển.<ref name="M. Stemenko p 1">S. M. Stemenko. Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh. Tập 1. trang 185.</ref>
Dòng 31:
== Bối cảnh ==
 
Sau thắng lợi trong [[Trậntrận Vòng cung Kursk|chiến dịch phòng ngự phản công Kursk]], quân đội Liên Xô đã giành lại được quyền chủ động chiến lược và liên tiếp mở các chiến dịch Kutuzov, Nguyên soái Rumyantsev, Smolensk (1943), Donbas, Dniepr... đẩy quân đội Đức Quốc xã trên [[Chiến tranh Xô-Đức|mặt trận Xô Đức]] vào thế bị động đối phó. Thất bại nặng nề của quân đội Đức Quốc xã tại [[trận Vòng cung Kursk|trận Kursk]] đã gây nên cho họ cuộc khủng hoảng quân số, vũ khí và phương tiện chiến tranh vào nửa cuối năm 1943 với trên 1,5 triệu quân bị loại khỏi vòng chiến đấu. Số quân bổ sung từ nước Đức không đủ bù đắp được thiệt hại, Bộ chỉ huy tối cao quân đội Đức Quốc xã phải rút bớt quân ở các hướng thứ yếu để tăng cường cho các mặt trận chủ yếu quyết định số phận cuộc chiến. Đến ngày 27 tháng 8, Tập đoàn quân 17 (Đức) ở Taman chỉ còn 12 sư đoàn, giảm 6 sư đoàn so với hồi tháng 4 năm 1943.<ref name="gorshkov6">[http://militera.lib.ru/h/gorshkov_sg/06.html Горшков Сергей Георгиевич, На южном приморском фланге (осень 1941 г. — весна 1944 г.). — М.: Воениздат, 1989. - Глава шестая: В наступательных операциях]</ref>
 
Để bù đắp cho sự thiếu hụt về quân số trong tác chiến phòng thủ, quân đội Đức Quốc xã đã biến cả khu vực phía bắc bán đảo Myskhko thành một vùng trắng dày đặc bãi mìn và các hỏa điểm phòng thủ. Trên chiều dài 12&nbsp;km của trận tuyến cắt ngang bán đảo, Quân đoàn xung kích 5 (Đức) đã bố trí 65 hỏa điểm, 41 bãi mìn có tổng chiều dài 3,6&nbsp;km sâu 400 m, 4 lớp rào thép gai có tổng chiều dài 36&nbsp;km, mỗi lớp sâu từ 25 đến 40 m; 24&nbsp;km hào chiến đấu và 15 hầm trú ẩn cỡ lớn. Chiến thuật "chui xuống đất" của quân đội Đức Quốc xã và Romania tại đây đã có những tác dụng phòng tránh khá tốt trước kỏa lực của pháo hạm và máy bay Liên Xô. Trong thành phố Novorossiysk, Quân đoàn xung kích 5 (Đức) cũng bố trí hơn 500 hỏa điểm trong các ụ chiến đấu và các tòa nhà kiên cố, hơn 30.000 quả mìn chống tăng, chống kỵ binh và bộ binh cũng được gài trên các ngả đường vào thành phố. Tại lối vào quân cảng, hơn 300 quả thủy lôi đã được neo giữ ngầm dưới nước.<ref name="badanin10">[http://militera.lib.ru/h/badanin_bv/10.html Баданин Борис Васильевич, На боевых рубежах Кавказа. — М.: Воениздат, 1962 - 6. Бои за «Голубую линию»]</ref>
Dòng 100:
 
=== Trong thành phố Novorossiysk ===
Từ ngày 12 tháng 9, Không quân Đức đã hoạt động mạnh hơn, bắt đầu ném bom, bắn phá các đầu cầu do quân đội Liên Xô chiếm giữ tại bán đảo Myskhako. Tập đoàn quân không quân 4 (Liên Xô) cũng huy động các máy bay cường kích oanh tạc các vị trí của quân Đức trong khu vực Novorossiysk. Tuy nhiên, số lượng máy bay của hai bên tham chiến đều giảm hẳn so với hồi tháng 4 năm 1943 do những thiệt hại không nhỏ sau [[Trận Vòng cung Kursk|Chiến dịch Kursk]]. Tuy có gần 200 máy bay tại căn cứ Temryuk nhưng không quân Đức không thể đánh phá tới cảng Gelendzhik do số máy bay ném bom tầm xa đã được điều dộng cho các mặt trận tại sông Mius và sông Dniepr. Từ ngày 13 tháng 9, Tập đoàn quân 17 đã phải dựa vào không quân để tiếp tế cho các sư đoàn bộ binh 73 (Đức) và sư đoàn bộ binh 10 (Romania) đang đóng tại Novorossiysk vì hành lang duy nhất nối cánh quân này với chủ lực Tập đoàn quân 17 qua các ga Gaiduk, Verkhne Balkanskaya, Nizhni Bankanskaya đến Krymskaya đã bị đứt bởi cả khu vực Krymskaya đã bị quân đội Liên Xô chiếm lại.<ref name="badanin12"/>
 
Ngày 13 tháng 9, sườn phải của sư đoàn bộ binh 318 đã được nối liền với trung đoàn bộ binh 55 của sư đoàn 176 ở Markotkh và tiếp tục phát triển đến Neberdzhayevskaya. Quân đức ở Novorossiysk đã thực sự ở trong một cái túi. Các trận chiến trên đường phố Novorossiysk diễn ra quyết liệt bởi Sư đoàn 73 (Đức) cố giữ lấy con đường bộ từ Verkhne Balkanskaya lên Gostagayevskaya, lối thoát thân duy nhất còn lại. Tướng Fritz Franek đã tung toàn bộ trung đoàn cơ giới 101 để đối phó với Lữ đoàn xe tăng 5 (Liên Xô) đã đột phá từ khu vực nhà máy Tháng Mười Đỏ vào phía Đông thành phố.<ref name="grechko1-6"/> Trên các con phố với các dãy nhà thấp hầu như bị sập đổ bởi bom và pháo xen kẽ với nhà 3 tầng 4 tầng kiên cố hơn bắt đầu xuất hiện các khẩu đội pháo binh bắn tỉa của quân đội Liên Xô được trang bị pháo hạng nhẹ 45&nbsp;mm yểm hộ cho bộ binh và xe tăng tấn công. Gần quảng trường trung tâm thành phố, hơn 20 xe tăng của trung đoàn cơ giới 101 Đức đã bị phá hủy. Lữ đoàn xe tăng 5 (Liên Xô) mất 2 chiếc KV, 1 chiếc T-34 và 2 pháo tự hành.<ref name="badanin12">[http://militera.lib.ru/h/badanin_bv/12.html Баданин Борис Васильевич, На боевых рубежах Кавказа. — М.: Воениздат, 1962 - 8. Прорыв «Голубой линии»]</ref>
Dòng 114:
Đây là một chiến dịch đổ bộ được tổ chức và phối hợp tốt giữa lục quân và hải quân Xô Viết, đã khắc phục được rất nhiều nhược điểm về chiến thuật và kỹ năng hiệp đồng quân, binh chủng so với [[Chiến dịch Myskhako]] hơn nửa năm trước đó. Cánh quân hải quân đánh bộ tấn công từ phía biển đã khai thác được những thuận lợi của căn cứ đầu cầu Myskhko để phân tán binh lực và hỏa lực của đối phương. Cánh quân bộ binh gồm chủ lực Tập đoàn quân 18 tấn công từ phía Đông đã làm cho chủ lực Quân đoàn xung kích 5 (Đức) vốn đã bị suy yếu sau các cuộc tảo thanh căn cứ đầu cầu Myskhako trước đó càng bị căng dãn tối đa, sức phòng thủ giảm sút đáng kể.
 
Hầu hết quân nhân Liên Xô tham gia chiến dịch Novorossiysk tháng 9 năm 1943 đều được tặng thưởng huân, huy chương các hạng. Trong đó, có ba người được phong danh hiệu [[Anh hùng Liên bang Xô viết|Anh hùng Liên Xô]] gồm trung tá hải quân V. A. Botylev, chỉ huy tiểu đoàn hải quân đánh bộ 393, trung tá A. V. Raykunov và thượng sĩ nhất Filipp Yakovlevich Rubakho (truy tặng).
 
== Chú thích ==
Dòng 133:
 
{{DEFAULTSORT:Novorossiysk}}
 
[[Thể loại:Xung đột năm 1942]]
[[Thể loại:Chiến dịch Kavkaz]]