Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Liên đại Hỏa thành”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n r2.6.4) (Bot: Sửa sh:Had (eon)
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
'''Liên đại Hỏa thành''' hay '''liên đại Thái Viễn cổ''' hoặc '''liên đại Minh cổ''' (Hadean) là một [[liên đại (địa chất)|liên đại địa chất]] trước [[liên đại Thái cổ]] (Archean). Nó trải dài từ khi bắt đầu hình thành [[Trái Đất]] và kết thúc vào khoảng 3.800 triệu năm trước ([[Ma (đơn vị)|Ma]]), mặc dù niên đại của nó dao động rất mạnh trong các nguồn tài liệu địa chất khác nhau. Tên gọi "Hadean" có nguồn gốc từ [[Hades]], vị thần của người Hy Lạp cho "âm ti" hay "[[địa ngục]]" và nó gợi ra hình ảnh của [[âm phủ]] hoặc là ám chỉ tới các điều kiện trên Trái Đất vào thời gian đó. [[Nhà địa chất học|Nhà địa chất]] [[Preston Cloud]] đã sáng tạo ra thuật ngữ này năm [[1972]], ban đầu dùng để gán cho thời kỳ trước cả các loại [[đá (địa chất)|đá]] đã biết. W. B. Harland sau này đã sáng tạo ra một thuật ngữ gần giống như thế là "'''thời kỳ Priscoan'''". Các văn bản cũ hơn đơn giản chỉ gọi liên đại này là '''Tiền-Thái Cổ''', trong khi trong phần lớn thời gian của thế kỷ 19 và 20 thì thuật ngữ "'''Azoic'''" (tức vô sinh - nghĩa là không có hoặc trước sự sống) nói chung hay được sử dụng.
 
== Các tầng đá của liên đại Hỏa thành ==
 
Trong các thập kỷ cuối [[thế kỷ 20]] các nhà địa chất đã xác định được một số loại đá thuộc đại Hỏa Thành ở miền tây [[Greenland]], tây bắc [[Canada]] và miền tây [[Úc|Australia]]. Các thành hệ đá cổ nhất đã biết ([[dải đá lục Isua]]) bao gồm các loại trầm tích đã bị biến đổi một chút từ Greenland có niên đại khoảng 3.800 Ma bởi các [[đai cơ thể tường]] [[núi lửa]] đã thâm nhập các lớp đá sau khi chúng được lắng đọng xuống. Các tinh thể [[ziricon]] riêng rẽ đã tái lắng đọng trong các trầm tích ở miền tây [[Canada]] và khu vực [[Jack Hills]] ở miền tây [[Úc|Australia]] là cổ hơn nhiều. Các tinh thể ziricon cổ nhất có niên đại khoảng 4.400 Ma - rất gần với thời gian giả thuyết của [[Lịch sử Trái Đất#Nguồn gốc|sự hình thành Trái Đất]].
 
Các trầm tích ở Greenland bao gồm các lớp [[thành hệ đá sắt|đá sắt kết lớp]]. Chúng chứa những thứ có thể là [[cacbon]] [[hợp chất hữu cơ|hữu cơ]] và hoàn toàn có thể chỉ ra rằng [[sự sống]] [[quang hợp]] đã nổi lên từ thời kỳ đó. Các [[hóa thạch]] cổ nhất đã biết (từ Australia) có niên đại vài trăm triệu năm muộn hơn.
Dòng 15:
Một phần của hành tinh non trẻ này có lẽ đã bị phá vỡ bởi một [[giả thuyết va chạm lớn|va chạm]] để tạo nên Mặt Trăng, nó có lẽ được gây ra bởi sự nóng chảy của của một hoặc hai khu vực lớn. Các thành phần hiện nay không phù hợp với sự nóng chảy hoàn toàn, và va chạm đó rất khó để có thể nung chảy hoàn toàn và trộn lẫn các khối đá khổng lồ [http://solarsystem.nasa.gov/scitech/display.cfm?ST_ID=446].
 
Nghiên cứu về ziricon đã phát hiện ra rằng nước ở trạng thái lỏng lỏng có thể đã tồn tại từ khoảng 4.400 Ma, rất sớm sau sự hình thành của Trái Đất [http://wwwrses.anu.edu.au/admin/index.php?p=harrison], [http://info.anu.edu.au/mac/Media/Media_Releases/_2005/_November/_181105harrisoncontinents.asp], [http://www.geology.wisc.edu/%7Evalley/zircons/cool_early/cool_early_home.html]. Điều này chứng tỏ có sự hiện diện của [[khí quyển]]. [[Hiđrô]] và [[heli|hêli]] có lẽ vẫn tiếp tục bị mất khỏi bầu khí quyển này, nhưng sự thiếu vắng các [[khí quýhiếm|khí trơ]] nặng hơn trong khí quyển ngày nay đã gợi ý rằng có lẽ đã có một điều gì đó mang tính thảm họa đã xảy ra với bầu khí quyển ban đầu này. Tuy nhiên, một phần đáng kể các vật chất có lẽ đã bị hóa hơi bởi va chạm này, tạo thành một bầu khí quyển dày dặc hơi đá xung quanh hành tinh non trẻ. Đá bốc hơi có lẽ đã ngưng tụ trong phạm vi khoảng 2.000 năm, để lại sau lưng nó các chất dễ bay hơi còn nóng bỏng, tạo ra một bầu khí quyển dày [[cacbon điôxít|điôxít cacbon]] cùng hiđrô và hơi nước. Các đại dương chứa nước lỏng có lẽ đã tồn tại mặc dù nhiệt độ bề mặt ở mức khoảng 230&nbsp;°C, dưới áp suất khí quyển rất lớn của CO<sub>2</sub>. Khi quá trình nguội đi được tiếp diễn, các sự lún sụt của đất và sự hòa tan trong nước biển đã loại bỏ phần lớn CO<sub>2</sub> ra khỏi khí quyển nhưng nồng độ của nó dao động một cách dữ dội do bề mặt mới và các chu trình tạo lớp vỏ Trái Đất đã xuất hiện.[http://www.pnas.org/cgi/content/full/98/7/3666]
 
== Các đơn vị phân chia ==