Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mặt trận phía Đông (Thế chiến thứ nhất)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 9:
|combatant1={{flagcountry|German Empire}}<br />{{flagcountry|Austria-Hungary}}<br />{{flagcountry|Ottoman Empire}}<br />{{flagicon|Bulgaria}} [[Vương quốc Bulgaria]]
|combatant2={{flagcountry|Russian Empire}}<br />{{flagicon|Romania}} [[Vương quốc Romania]]<br /><hr>{{flagcountry|Russian SFSR|1918}}
|commander1={{flagicon|German Empire}} [[Paul von Hindenburg]]<br />{{flagicon|German Empire}} [[Erich Ludendorff]]<br />{{flagicon|Austria-Hungary}} [[Franz Graf Conrad von Hötzendorf|Conrad von Hötzendorf]]
|commander2={{flagicon|Russian Empire}} [[Nikolai II của Nga|Nikolai II]]<br />{{flagicon|Russian Empire}} [[Đại Công tước Nikolai]]<br />{{flagicon|Romania}} [[Constantin Prezan]]<br /><hr>{{flagicon|Russian SFSR|1918}} [[Lev Davidovich Trotsky|Leon Trotsky]]
|strength1=
|strength2=
Dòng 18:
{{Campaignbox Russian Front}}
{{Campaignbox World War I}}
'''Mặt trận phía Đông (Chiến tranh thế giới thứ nhất)''', tức là cuộc '''Chiến tranh Nga - Đức lần thứ nhất''',<ref>Bennett Kovrig, ''Communism in Hungary: from Kun to Kádár'', trang 153</ref> bao gồm các chiến trường của [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]] ở [[Đông Âu]] và [[Trung Âu]]. Mặt trận phía Đông và [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Tây]] của cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhất tuy có sự khác nhau về [[địa lý]] nhưng diễn ra song song với nhau và có những ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Mặt trận phía đông bắt đầu từ [[tháng tám|tháng 8]] [[1914]] khi [[Đế quốc Đức|Đế chế Đức]] tuyên chiến với [[Đế quốc Nga]] và kết thúc vào [[tháng ba|tháng 3]] [[1918]] sau [[hòa ước Brest-Litovsk]] giữa nước [[Liên Xô|Nga Xô Viết]] và [[Đế quốc Đức|Đế chế Đức]]. Chiến thắng trên Mặt trận phía Đông đã mang lại cho nước Đức thêm nhiều lãnh thổ, cho đến khi mất hết sau chiến tranh.<ref name="ronpowly20"/>
 
Chiến tuyến ở mặt trận phía đông trải dài hơn mặt trận phía tây. Chiến trường kéo dài theo chiều ngang từ [[biển Baltic]] ở phía tây cho đến [[Moskva]] ở phía đông khoảng 1200 kilometers và trải dài theo chiều dọc từ [[Sankt-Peterburg|Saint Petersburg]] ở phía bắc cho đến [[biển Đen]] ở phía nam khoảng 1.600 kilometers. Điều này cũng ảnh hưởng đến cảnh quan chiến trường ở mặt trận này. Trong khi ở mặt trận phía tây là hệ thống [[chiến hào]] dày đặc do đặc điểm [[chiến tranh trận địa]] thì ở mặt trận phía đông chiến tranh được tiến hành cơ động hơn nên hệ thống chiến hào không phổ biến bằng. Và cũng do chiến tuyến quá rộng nên việc chọc thủng [[phòng tuyến]] là dễ dàng hơn so với mặt trận phía tây vì mật độ quân thưa thớt và hệ thống [[thông tin liên lạc]] kém phát triển nên phe phòng thủ khi mất chiến tuyến không kịp gọi quân tiếp viện đến để lập phòng tuyến mới phía sau. 1 đặc điểm nữa là [[địa hình]] ở mặt trận này là đa phần đất rắn nên khó có thể xây dựng các chiến hào trong khi ở mặt trận phía tây đa phần là đất mềm và bùn.
 
Do những đặc điểm về hệ thống phòng thủ như vậy đã ảnh hưởng rất nhiều đến diễn biến ở mặt trận phía đông trong thế chiến thứ nhất. Các cuộc chọc thủng phòng tuyến thường xuyên diễn ra ở quy mô lớn mà tiêu biểu là trong năm [[1915]], quân Đức đã đánh bại quân Nga liên tục và chiến tuyến đã được dời về phía đông rất xa hay [[cuộc tổng tấn công của Brusilov|cuộc tổng tấn công của tướng Brusilov]] đã đánh bại hoàn toàn quân chủ lực của [[đế quốc Áo-Hung]] tại [[Galicia (Tây Ban Nha)|Galicia]] vào năm [[1916]].
 
== Mặt trận Nga ==
[[Tập tin:Tsar nikolai.jpg|nhỏ|250px|''Nga hoàng Nikolai II'' (1915) vẽ bởi [[Boris Kustodiev]].]]
Ngày [[23 tháng 7]] [[1914]], [[đế quốc Áo-Hung]] gửi tối hậu thư cho [[Serbia]] sau sự kiện [[Thái tử]] Áo-Hung bị ám sát tại [[Savarejo]], [[Bosna và Hercegovina|Bosnia]]. Với tư cách là đồng minh của các quốc gia vùng [[Balkan]], vào ngày [[25 tháng 7]] Nga tuyên bố không cho phép bất kì nước nào xâm phạm chủ quyền Serbia. Ngày [[29 tháng 7]], 1 ngày sau khi đế quốc Áo-Hung tuyên chiến với Serbia, Nga ra lệnh tổng động viên quân đội. Trước việc đó, ngày [[1 tháng 8]] 1914 [[đế quốc Đức]] tuyên chiến với [[đế quốc Nga]]. Khi cuộc chiến bắt đầu [[Sa hoàng|Nga hoàng]] [[Nikolai II của Nga|Nikolai II]] đã chỉ định [[Đại Công tước]] Nikolai làm [[tổng tư lệnh]] [[lực lượng Vũ trang Liên bang Nga|quân đội Nga]].
 
=== 1914 ===
Theo [[kế hoạch Schlieffen]] mà [[đế quốc Đức]] đề ra trước cuộc chiến thì ở giai đoạn đầu của cuộc chiến mặt trận phía đông chỉ để phòng thủ trước các đợt tấn công của quân [[Nga]] và khi giải quyết xong nước [[Pháp]] ở [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|mặt trận phía tây]] sẽ quay sang tiêu diệt đế quốc Nga kết thúc sớm [[chiến tranh]]. Kế hoạch này của người Đức dựa trên việc [[lực lượng Vũ trang Liên bang Nga|quân đội Nga]] sẽ không tiến hành tổng động viên và tấn công kịp thời nhưng đây là điều sai lầm vì quân Nga đã có sự cách tân đáng kể nên việc huy động và triển khai quân đã diễn ra nhanh hơn so với dự tính của người Đức. Phòng thủ tại [[Đông Phổ]], vị trí nằm giữa biên giới Nga và Đức là [[tập đoàn quân]] số 8 của tướng [[Maximilian von Prittwitz]]. Kế hoạch của [[quân đội Áo-Hung]] cũng tương tự như người Đức khi quân đội Áo-Hung để 1 [[phương diện quân]] đóng tại [[Galicia (Tây Ban Nha)|Galicia]] để phòng thủ trước quân Nga.
 
==== Chiến trường Đông Phổ ====
Ngay sau [[khi chiến tranh]] bắt đầu, 2 [[tập đoàn quân]] số 1 do [[Paul Rennekampf]] chỉ huy và số 2 [[Aleksandr Vassilievich Samsonov|Alexander Samsonov]] chỉ huy đã ngay lập tức tiến đánh [[Đông Phổ]], nơi có 150 000 quân Đức. Rennekampf từ Nga đánh vào mặt đông của Đông Phổ còn Samsonov từ [[Ba Lan]] tấn công vào mặt bắc. Trong [[trận Gumbinnen]] diễn ra vào ngày [[20 tháng 8]], tập đoàn quân số 1 của Nga đã đánh bại tập đoàn quân số 8 của Đức đóng tại Đông Phổ khiến quân Đức phải rút chạy và bỏ Đông Phổ về tay quân Nga. Sau thất bại này, người Đức đã đưa [[Paul von Hindenburg]] làm [[tổng tư lệnh]] quân Đức ở mặt trận phía đông và [[Ludendroff]] làm [[tham mưu trưởng]] cùng với việc rút 1 số [[sư đoàn]] từ [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|mặt trận phía tây]] về để tăng cường sức mạnh. Chính điều đó đã khiến cho Quân đội Đức mất ưu thế về quân số trên Mặt trận phía Tây, và bị quân [[Đệ tam Cộng hòa Pháp|Pháp]] chặn chân trong [[trận sông Marne lần thứ nhất]].<ref name="corfieldja13">Jamie H. Cockfield, ''With Snow on Their Boots: The Tragic Odyssey of the Russian Expeditionary Force in France During World War I'', trang 13</ref>
[[Tập tin:Hindenburg-ludendorff.jpg|nhỏ|trái|[[Paul von Hindenburg]] (left) và [[Erich Ludendorff]], những người hùng của nước Đức sau [[trận Tannenberg]]]]
Hindenburg và Ludendorff đã tập trung quân để tiêu diệt từng cánh quân 1 của người Nga. Trước khi 2 người này đến Đông Phổ thì sĩ quan tổng tham mưu của Đức là [[Max von Hoofman]] sau khi nghe tin Rennekampf có ý đồ ngừng tiến quân đã cho rút các lực luợng đang chiến đấu với Rennekampf tập trung về [[Tannenberg]] để chờ tập đoàn quân số 2 của Samsonov đang từ [[Ba Lan]] tiến đến. Ngày [[26 tháng 8]], [[trận Tannenberg]] mở màn. Samsonov biết đang lâm nguy nên cố thủ chờ quân của Rennekampf đến cứu nhưng không được. Ngày [[29 tháng 8]], Samsonov [[tự sát]] và đến ngày [[30 tháng 8]] thì [[tập đoàn quân]] số 2 hoàn toàn bị đập tan với số thương vong là 30 000 và 95 000 quân bị bắt. Những vị thống soái có công chiến thắng lừng lẫy - Hindenburg và Ludendorff dạt dào niềm vinh quang.<ref name="ronaldpawly"/> Trận Tannenberg là thảm bại của quân Nga trong năm [[1914]]. Thậm chí, chiến thắng huy hoàng này còn được xem là thắng lợi quyết định hơn cả của Quân đội Đế chế Đức trong suốt cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhất.<ref name="ronaldpawly">Ronald Pawly, ''The Kaiser's warlords: German commanders of World War I'', trang 45</ref> Sau trận này thì đến ngày [[11 tháng 9]], quân Đức tấn công và chiếm được nơi đóng quân của tập đoàn quân thứ nhất Nga. Ngày [[13 tháng 9]], tập đoàn quân này rút khỏi Đông Phổ và tổn thất 110 000 người. Chiến dịch Đông Phổ kết thúc với thất bại của người Nga.
 
Đến cuối năm 1914, quân Nga và quân Đức vừa tăng viện từ [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|mặt trận phía tây]] lại chạm trán nhau tại miền trung [[Ba Lan]], phía tây [[wisla|sông Vistula]] trong các [[trận sông Wisla|trận sông Vistula]] và [[trận Łódź]]. Các trận đánh này kết thúc với lợi thê thuộc về người Đức nhung quân Đức đã không thể tiến xa thêm nữa vào [[lãnh thổ]] [[Nga]].
 
==== Chiến tuyến Tây Bắc ====
Trong khi quân Nga thất bại tại [[Đông Phổ]] thì tại [[Galicia (Tây Ban Nha)|Galicia]], [[lực lượng Vũ trang Liên bang Nga|quân đội Nga]] kiểm soát được phần lớn nơi này vào cuối năm [[1914]]. Chỉ huy quân Nga tại chiến tuyến Tây Bắc là [[Nikolay Ivanov]] và [[Aleksey Alekseyevich Brusilov|Aleksey Brusilov]]. [[Tháng chín|Tháng 9]] 1914, quân Nga đánh bại [[quân đội Áo-Hung]] trong [[trận Lwów|trận Lemberg]] và bắt đầu vây hãm [[thành phố]] [[Przemysl]]. Quân Nga chiếm được nơi này vào [[tháng ba|tháng 3]] [[1915]]. Kết thúc năm 1914, quân đội Áo-Hung bị đánh bại liên tiếp và quân Nga tiến sát đến chân [[núi Carpathian]].
 
Như vậy năm 1914, mặt trận phía đông kết thúc với thắng lợi lớn của người Đức nhưng buộc họ phải điều động nhiều [[sư đoàn]] từ [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|mặt trận phía tây]] sang, khiến chiến tranh ngày càng kéo dài và quy mô mặt trận phía đông ngày càng được mở rộng.
Dòng 45:
=== 1915 ===
[[Tập tin:EasternFront1915b.jpg|300px|nhỏ|250px|Mặt trận phía đông [[1915]]]]
Đến năm [[1915]], bộ chỉ huy quân Đức và quân Áo quyết định cùng nhau tác chiến thực hiện cuộc tấn công lớn vào quân Nga, buộc [[đế quốc Nga]] phải đầu hàng rồi chuyển sang [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|mặt trận phía tây]] tiêu diệt quân [[Pháp]] và [[Anh]]. Do đó đầu năm 1915 quân Đức điều 1 số lớn [[binh đoàn]] từ mặt trận phía tây sang và chuyển sang phòng thủ ở mặt trận phía tây. Từ [[tháng một|tháng 1]] đến [[tháng ba|tháng 3]], quân Nga bị quân Đức đánh bại tại [[trận hồ Masuren lần thứ hai|trận hồ Masurian lần thứ hai]], phải rút khỏi Đông Phổ nhưng chiếm được [[thành phố]] [[Przemysl]] của [[Đế quốc Áo-Hung|Áo-Hung]], củng cố [[Galicia (Tây Ban Nha)|Galicia]] và uy hiếp [[Hungary]]. Điều này càng thúc đẩy cuộc tấn công của quân Đức. Đến cuối [[tháng tư|tháng 4]] quân Đức đã tập trung 1 lực lượng hùng hậu tại khu vực nằm giữa thượng du [[wisla|sông Wisla]] và [[núi Carpathian]] bao gồm 16 [[sư đoàn]] [[bộ binh]], 2 [[sư đoàn]] [[kỵ binh|kị binh]], 1140 khẩu [[pháo|đại bác]] và 1000 khẩu [[đại bác hạng nặng]].
 
Ngày [[2 tháng 5]], tướng [[August von Mackensen]] bất ngờ tấn công các cứ điểm của quân Nga giữa [[Gorlice]] và [[Tarnow]]. Do quân Nga đang trong tình trạng khan hiếm trầm trọng về đạn dược nên đó chỉ trong 2 tuần, quân Nga đã phải rút lui trên 1 chiến tuyến dài 160 cây số. Trong 1 tháng, Quân đội Đức đã tiến gần 100 dặm và bắt làm tù binh gần 400 000 lính Nga. Đến tháng 7 thì [[Đại tướng]] [[Erich von Falkenhayn|Falkenhayn]] ra lệnh cho [[Hindenburg]] từ phia bắc và Mackensen từ phia nam đánh đuổi quân Nga ra khỏi [[Ba Lan]]. Ngày [[5 tháng 8]] 1915, [[quân đội Đức]] chiếm [[Warszawa|Warsaw]], [[thủ đô]] Ba Lan. Tướng Mackensen - với thắng lợi hoành tráng của ông, trở thành vị thống soái nổi tiếng nhất của Quân đội Đế chế Đức chỉ sau Hindenburg. Vào này [[10 tháng 5]] năm 1915, ông nhận [[Huy chương Đại Bàng Đen]].<ref>Ronald Pawly, ''The Kaiser's warlords: German commanders of World War I'', trang 52</ref>
Như vậy tổng kết mặt trận phia đông sau khi năm 1915 kết thúc, quân Nga đã rút khỏi [[Bucovina]], [[Galicia (Tây Ban Nha)|Galicia]], [[Ba Lan]], [[Litva]] và 1 phần [[Latvia]]. Cuối năm 1915, mặt trận phía đông chuyển sang trận địa chiến ([[chiến tranh chiến hào]]) trên 1 chiến tuyến dài 1200 kilometers từ [[sông Dnepr|sông Dnieper]] đến [[vịnh Riga]]. Tuy quân Đức đã liên tục giành thắng lợi, khiến chiến tuyến phải dời về phía đông rất xa nhưng vẫn chưa loại được [[đế quốc Nga]] ra khỏi cuộc chiến nên quân Đức vẫn không thể dồn toàn bộ lực lượng sang [[mặt trận phia tây]] để tiêu diệt liên quân [[Anh]]-[[Pháp]] như kế hoạch. Sau những thất bại này [[Đại công tước]] Nikolai cũng bị cách chức [[tổng tư lệnh]] [[lực lượng Vũ trang Liên bang Nga|quân đội Nga]] và [[Sa hoàng|Nga hoàng]] [[Nikolai II của Nga|Nikolai II]] chính thức nắm chức tổng tư lệnh quân đội Nga.
 
=== 1916 ===
[[Tập tin:Brusilov Aleksei in 1917.jpg|frame|Tướng Aleksei Brusilov]]
Đến năm [[1916]], [[quân đội Đức]] theo kế hoạch của [[Erich von Falkenhayn|Falkenhayn]] tập trung quân lực sang [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|mặt trận phía tây]] để tiêu diệt [[quân đội Pháp]], mà trọng điểm là [[Verdun]]. [[Trận Verdun]] bắt đầu từ ngày [[21 tháng 2]] 1916 là cuộc đại chiến hao tốn rất lớn nhân lực của cả Đức và Pháp. Trước tình hình đó, để giải nguy cho mặt trận phía tây và lợi dụng [[quân đội Áo-Hung]] đang chuyển quân sang [[mặt trận Ý]], bộ chỉ huy quân Nga quyết định phát động 1 cuộc tấn công vào các [[phòng tuyến]] của quân đội Áo-Hung tại [[Galicia (Tây Ban Nha)|Galicia]] và người chỉ huy cuộc tấn công này là tướng [[Aleksey Alekseyevich Brusilov|Aleksey Brusilov]].
 
Ngày [[4 tháng 6]] 1916, [[cuộc tổng tấn công của Brusilov|cuộc tổng tấn công của tướng Brusilov]] tại mặt trận phía đông bắt đầu. Chỉ trong vòng vài ngày, toàn bộ các chiến tuyến của quân Áo tại Galicia đã tan vỡ. Đến ngày [[20 tháng 9]], cuộc tổng tấn công này chấm dứt khi thương vong của lính Nga ngày càng tăng và sau cuộc tổng tấn công này, thương vong của quân đội Áo-Hung là 1,5 triệu người và 400 000 người bị bắt làm [[tù binh]] còn về phía Nga là 1.4 triệu người.<ref name="ReferenceA">Robin Prior, Trevor Wilson -The First World War tr 116 NXB Cassell</ref> g. Thắng lợi này của quân Nga tại mặt trận phía đông đã ảnh hưởng rất lớn đến kết cục của cuộc chiến tranh này vì đã ngăn chặn được các cuộc cuộc tấn công của quân đội Áo-Hung tại mặt trận Italy, cải thiện tình hình ở mặt trận phía tây làm cho quân Đức gặp thêm khó khăn trong việc tấn công Verdun, tạo điều kiện cho liên quân Anh-Pháp phản công tại [[trận Somme (1916)|trận Somme]]. Cuối cùng nó đã thúc đẩy [[Romania]] từ chỗ trung lập đã quyết định tham gia cuộc chiến theo khối [[Hiệp ước]]. Tuy làm cho quân Áo-Hung suy sụp nhưng phía Nga cũng bị thiệt hại nặng và kiệt sức, không thể khai thác được thắng lợi.<ref name="ReferenceA"/>
 
=== 1917 ===
Bước sang năm [[1917]], [[đế quốc Nga]] đã hoàn toàn rệu rã trong cuộc chiến. Ngoài mặt trận quân Nga đào ngũ liên tục, thương vong và bệnh tật ngày càng tăng còn trong nước sự bất mãn với chế độ [[quân chủ chuyên chế]] cuối cùng đã biến thành 1 cuộc [[cách mạng]]. Ngày [[8 tháng 3]], [[Cách mạng Tháng Hai]] bắt đầu và đến ngày [[13 tháng 3]] thì [[công nhân]] và [[người lính|binh lính]] đã chiếm các vị trí trọng yếu tại [[Sankt-Peterburg|Petrograd]], bắt giữ các [[bộ trưởng]] và tướng tá của Nga hoàng. Ngày [[15 tháng 3]], Nga hoàng [[Nikolai II của Nga|Nikolai II]] ngoài mặt trận đã tuyên bố thoái vị, [[đế quốc Nga]] sụp đổ.
[[Tập tin:Eastern Front As of 1917.jpg|nhỏ|trái|250px|Mặt trận phía đông 1917]]
Sau Cách mạng Tháng Hai, chính phủ tư sản lâm thời Nga vẫn tiếp tục theo đuổi [[chiến tranh]] đến cùng. Ngày [[1 tháng 7]] 1917, [[bộ trưởng chiến tranh]] [[Aleksandr Fyodorovich Kerenskii|Alexander Kerensky]] tổ chức 1 cuộc tấn công lớn tại [[Galicia (Tây Ban Nha)|Galicia]] nhằm vào liên quân Đức, Áo-Hung để khẳng định lại vai trò của nước Nga trong cuộc chiến. Nhưng [[cuộc tổng tấn công của Kerensky]] đã nhanh chóng thất bại vì quân Nga đã hết tinh thần chiến đấu, đào ngũ hàng loạt lại gặp phải sự chống đối của những người ủng hộ [[bolshevik|đảng Bolshevik]]. Sau thất bại này, làn sóng phản chiến trong nội bộ nước Nga ngày càng dâng cao và nhân cơ hội đó, [[quân đội Đức]] đã phản công chiếm lại [[Riga]] và uy hiếp [[Sankt-Peterburg|Petrograd]]. Ngày [[7 tháng 11]] [[1917]], [[Cách mạng Tháng Mười]] Nga thành công và [[Vladimir Ilyich Lenin|Lenin]], lãnh tụ của đảng Bolshevick tuyên bố sẽ đưa nước Nga Xô Viết ra khỏi chiến tranh đế quốc. Ngày 15 tháng 12, mặt trận phía đông chính thức đình chiến giữa Nga và các nước [[Liên minh Trung tâm]].
 
=== 1918 ===
Tuy đã có thoả thuận đình chiến nhưng do không thoả thuận được yêu sách về [[lãnh thổ]] của [[đế quốc Đức]] nên chiến sự tại mặt trận phía đông lại tiếp tục. Ngày [[18 tháng 2]] [[1918]], liên quân Đức, [[Đế quốc Áo-Hung|Áo-Hung]] chuyển sang tấn công trở lại, đặc biệt nhằm vào [[Sankt-Peterburg|Petrograd]] nhằm tiêu diệt nước Nga. Trước tình hình đó, ban chấp hành trung ương [[đảng Bolshevick]] đã quyết định trao cho [[Vladimir Ilyich Lenin|Lenin]] toàn quyền giải quyết vần đề [[chiến tranh]] và [[hòa bình]] của đất nước. Ngày [[19 tháng 2]], Lenin gửi điện cho [[chính phủ]] Đức thông báo Nga sẵn sàng kí [[hòa ước]] với những yêu sách do Đức đề ra. Nhưng quân Đức không trả lời và tiếp tục tấn công. Để bảo vệ nước Nga, lệnh tổng động viên đã được ban hành và nhiều [[tuổi trẻ|thanh niên]] đã lên đường nhập ngũ. Ngày [[23 tháng 2]] 1918, sau những trận đánh ác liệt, quân Nga đã chặn được quân Đức trước Petrograd. Cuối cùng, quân Đức mới đồng ý khôi phục cuộc đàm phán hòa bình với Nga. {{fact|date=7-01-2013}}
 
Ngày [[3 tháng 3]], [[hòa ước Brest-Litovsk]] được kí kết giữa nước [[Liên Xô|Nga Xô Viết]] và Đế chế Đức. Theo bản hòa ước này, nước Nga mất đi 1 phần [[lãnh thổ]] rộng lớn và bồi thường 6 tỉ [[Mark]] vàng chiến phí. Cụ thể các đất đai mà nước Nga phải từ bỏ bao gồm có quốc gia vùng [[biển Baltic|biển Ban Tích]], miền Tây [[Belarus|Belorussia]] và [[Ukraina]], [[Ba Lan]], [[Bessabaria]] và vùng [[Kars]].<ref name="Stanleyst763"/> Bản hòa ước này được kí kết đã khiến cho mặt trận phía đông của [[chiến tranh thế giới thứ nhất|thế chiến thứ nhất]] chính thức chấm dứt. Nhờ có chiến thắng vang dội này, Đế chế Đức không những có thêm đầy ắp lãnh thổ mà còn có điều kiện để chuyển tầm hướng sang Mặt trận phía Tây để mà tổ chức cuộc [[Tổng tấn công Mùa xuân 1918]].<ref name="ronpowly20">Ronald Pawly, ''The Kaiser's warlords: German commanders of World War I'', trang 20</ref> Đến [[tháng mười một|tháng 11]] 1918 khi đế quốc Đức sụp đổ thì nước Nga Xô Viết đã tuyên bố bản hòa ước Brest-Litovsk không còn giá trị và không thực hiện. Đến cuộc [[Nội chiến Nga]] thì Nga Xô viết mới lấy lại được phần lớn đất đai của Đế quốc Nga cũ.<ref name="Stanleyst763">Stanley Sandler, ''Ground warfare: an international encyclopedia'', Tập 1, trang 763</ref>
 
== Mặt trận Romania ==
Đầu cuộc [[chiến tranh]], [[Romania]] tuyên bố là nước trung lập. Thắng lợi của quân Nga tại mặt trận Tây Nam [[1916]] đã đưa Romania theo khối [[Hiệp ước]]. Các nước khối Hiệp ước tuyên bố đảm bảo sự toàn vẹn [[lãnh thổ]] của Romania và nước này có quyền chiếm lấy những vùng lãnh thổ của [[đế quốc Áo-Hung]] sau khi chiến tranh kết thúc. Ngày [[27 tháng 8]] [[1916]], Romania tuyên chiến với đế quốc Áo-Hung, tham gia vào [[chiến tranh thế giới thứ nhất|thế chiến thứ nhất]]. Mặt trận Romania hình thành.
 
[[Quân đội Romania]] do trang bị kém và lạc hậu, hậu cần không đáp ứng đủ điều kiện chiến tranh nên liên tục thất bại trong các trận giao tranh với liên quân Đức, Áo-Hung, [[Bulgaria]]. Đầu [[tháng mười|tháng 10]]/1916, [[đại sứ]] của [[vua]] Romania phải đến bộ chỉ huy Nga yêu cầu giúp đỡ. Như vậy việc Romania tham chiến càng làm quân Nga thêm mỏi mệt vì phải kéo dài thêm chiến tuyến.
 
Liên quân Đức, Áo-Hung, Bulgaria chia thành 2 đường tiến vào lãnh thổ Romania: vượt [[núi Carpathian]] tiến vào phía bắc Romania và vượt [[sông Donau|sông Danube]] tiến vào phía nam Romania. Đến ngày [[6 tháng 12]] 1916, [[thủ đô]] [[Bucarest]] của Romania bị Đức chiếm và các vùng sản xuất [[thực phẩm|lương thực]], [[dầu hỏa|dầu hoả]] cũng như các nguồn [[tài nguyên]] khác lần lượt rơi vào tay các nước [[Liên minh Trung tâm]]. Quân đội Romania vẫn còn 1 số nhỏ tiếp tục kháng cự và nhờ sự sự giúp đỡ của Nga, chiến tuyến Romania mới được ổn định ở hạ lưu sông Danube vào cuối [[tháng mười hai|tháng 12]] và do đó chiến tuyến của quân Nga kéo dài đến 500 cây số.
[[Tập tin:WWI.gif|nhỏ|phải|250px|Mặt trận Romania trong thế chiến thứ nhất]]
Ngày [[7 tháng 5]] [[1918]], Romania phải kí với các nước Liên minh Trung tâm [[hòa ước Bucarest]] theo đó Romania mất vùng nam [[Dobragea]] về tay [[Bulgaria]], vùng bắc Dobragea do Đức, [[Đế quốc Áo-Hung|Áo-Hung]], Bulgaria cùng quản lý. Đức toàn quyền sử dụng các [[tài nguyên]], [[cảng|hải cảng]] Romania trong vòng 50 năm và thời hạn chiếm đóng sẽ được xác định sau.
 
Sau khi cuộc [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Chiến tranh thế giới lần thứ nhất]] kết thúc, các nước Liên minh Trung tâm bại trận và Romania được hưởng nhiều quyền lợi nhờ các bản hòa ước kí với các nước thua trận.Theo [[hiệp ước Saint-Germain-en-Laye (định hướng)|hòa ước Saint-Germain]] kí với Áo và [[hòa ước Trianon]] kí với [[Hungary]] thì Romania được nhận 1 số đất đai của đế quốc Áo-Hung cũ nay đã tan rã, nhận lại vùng Dobragea từ tay Bulgaria và 1 khoản bồi thường chiến phí.
 
== Kết quả ==
Thương vong của quân Nga tại mặt trận phía đông trong [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]] là rất khó ước lượng vì việc [[khoa học Thống kê|thống kê]] khó khăn và chất lượng không tốt của các bản thống kê này. Một số bản số liệu chính thức cho con số là 775 400. Tuy nhiên gần đây một số bản số liệu mới là 900 000 người chết trong các trận chiến và 400 000 người chết do bị thương trong lúc chiến đấu. Như vậy tổng cộng là 1,3 triệu người. Con số này bằng với số người chết của [[Pháp]] và [[Đế quốc Áo-Hung|Áo-Hung]] và bằng 1/3 tổng số quân lính [[Đức]] ở mặt trận phía đông.
 
Tuy nhiên người Anh lại đưa ra 1 số liệu mới là hơn 2 triệu người chết ( 700 000 người chết trong các trận đánh, 970 000 người chết do bị thương, 155 000 người chết vì bệnh tật và 181 000 tù binh chết). Con số này đem chia cho tổng số nam giới từ 15 đến 49 tuổi sẽ là 5%, ngang với nước Anh. Số dân thường tổn thất trong 2 năm đầu là 600.000 người và tổng cộng khoảng 1.500.000 người khác không chắc lắm. Trên 5 triệu quân Nga bị bắt giữ kể từ năm 1915.
Dòng 89:
== Xem thêm ==
{{Commonscat|Eastern Front theatre of World War I}}
* [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Tây (Thế chiến thứ nhất)]]
* [[Mặt trận Ý (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận Ý (Thế chiến thứ nhất)]]
* [[Mặt trận Balkan (Thế chiến thứ nhất)]]
== Chú thích ==