Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Formosa thuộc Tây Ban Nha”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 67:
 
Năm 1637, tổng đốc Philippines [[Sebastián Hurtado de Corcuera]] đã quyết định cắt giảm quân lực ở Bắc Đài Loan để giảm chi phí. Ông hạ lệnh phá bỏ thành Santo Domingo ở Tamsui, chỉ để lại quân đồn trú tại Kelung, các nhân lực vật tư khác đều đưa về Manila.<ref>《福爾摩沙如何變成臺灣府》,頁203-205</ref> Kelung phòng bị rỗng không, cuỗi cùng dẫn đến sự thèm muốn của người Hà Lan. Năm 1641, người Hà Lan đến Kelung thám thính tình hình và tìm cơ hội tấn công. Lúc này, uy thế của người Hà Lan không còn được như trước, nhiều bộ lạc thổ dân đã chuyển sang phục tùng người Hà Lan. Tuy nhiên, người Hà Lan nhận thấy số lượng hỏa pháo của mình không đủ công phá pháo đài,<ref>《福爾摩沙如何變成臺灣府》,頁206</ref> sau khi khuyên hàng quân Tây Ban Nha thất bại, lại quay về Teyowan. Đến năm 1642, quân Hà Lan thực hiện tấn công quy mô lớn vào Kelung, đòng thời khống chế được cao điểm trên đảo Kelung. Quân Tây Ban Nha không thể kháng lại nên đã đầu hàng quân Đài Loan và rút khỏi Đài Loan.
 
== Kinh tế ==
Từ trước khi người Tây Ban Nha thống trị, thổ dân Bắc Đài Loan đã xuất bán [[vàng]], [[lưu huỳnh]], da hươu cho thương nhân Trung Hoa, Nhật Bản. Phương thức giao dịch chủ yếu là hàng đổi hàng, và cũng dùng ngọc trai, bạc, vải làm phương tiện.<ref>《福爾摩沙如何變成臺灣府》,頁198-200</ref> Vàng vốn được khai thác từ [[dãy núi Hải Ngạn]] ở Đông Đài Loan, thổ dân cư trú ở nơi đó tiến hành đãi ở hạ du các sông suối để tìm vàng sa khoáng, qua nhiều lần giao dịch mà được đưa đến Bắc Đài Loan,<ref>《福爾摩沙如何變成臺灣府》,頁166</ref> song sản lượng không đủ để cung ứng với số lượng lớn. Lưu huỳnh là mặc hàng xuất khẩu lớn nhất, nơi khai thác được nhiều là Ki-pataw, Ki-taparri, các thương nhân Trung Quốc chủ yếu vì thu mua lưu huỳnh mà đến. Thổ dân tiến hành khai thác khoáng sản từ tháng 9 đến tháng 12, do mức giả lưu huỳnh tại Trung Quốc thường biến động, thương nhân người Hán không định kỳ đến thu mua.<ref>《雞籠山與淡水洋》,頁251-253</ref>
 
Sau khi người Tây Ban Nha áp đặt quyền thống trị, vật tư để đáp ứng nhu cầu cho quân đồn trú cũng như bạc để dùng trong mậu dịch đều phải vận chuyển từ Manila đến, cung cấp chế độ huyết mạch kinh tế cho Bắc Đài Loan.<ref>《雞籠山與淡水洋》,頁209</ref> Hầu hết mỗi năm, Manila sẽ hai lần phái thuyền đến bổ cấp, một lần vào tháng 8, lần còn lại cách lần một khoảng 5 tháng, đem bạc từ châu Mỹ đến Kelung, mua tơ lụa, vải của thương nhân Hán, rồi lại đem thương phẩm đến Manila để bán. Mặc dù người Tây Ban Nha không được phép triển khai mậu dịch chính thức với [[nhà Minh|Đại Minh]], song họ đã chọn cách miễn thuế quan, miễn thuế hàng hóa, thậm chí miễn kiểm tra nhập quan để khuyến khích những người buôn lậu đến Kelung kinh doanh.<ref>《福爾摩沙如何變成臺灣府》,頁172</ref> Người Tây Ban Nha cũng cố gắng thu hút thương nhân Nhật Bản, mục đích là để phát triển Kelung thành cảng trung chuyển mậu dịch với Trung Quốc và Nhật Bản, song khi [[Mạc phủ Tokugawa]] ban hành lệnh [[Sakoku|tỏa quốc]], kỳ vọng này của người Tây Ban Nha đã tiêu tan.
 
Tuy nhiên, mô thức phát triển kinh tế này quá phụ thuộc vào Manila, mậu dịch hưng suy dựa vào thuyền bổ cấp đem bạc đến. Nhận thấy được điều này, [[Jacinto Esquivel]] đã từng kiến nghị cho nông dân Trung Quốc, Nhật Bản đến khai khẩn đất đai, song rốt cuộc đã không được nhà được cục đồng ý.<ref>《福爾摩沙如何變成臺灣府》,頁211-212</ref> Do đó, từ khi mậu dịch bạc của đế quốc Tây Ban Nha suy thoái, kinh tế Bắc Đài Loan bắt đầu tiêu điều, khiến người Tây Ban Nha rời bỏ Đài Loan.
 
== Truyền giáo ==
Sở dĩ người Tây Ban Nha chiếm lĩnh Đài Loan, ngoài nhân tố kinh tế và chính trị, còn xem xét đến vị trí thuận tiện của hòn đảo vì từ đây họ có thể dễ dàng đến Trung Quốc và Nhật Bản truyền giáo, và ban đầu họ đã cử 5 [[linh mục]] theo quân xuất chinh. Các giáo sĩ truyền giáo đa số đến từ [[Dòng Anh Em Thuyết Giáo|Dòng Đa Minh]], song cũng có sự tham gia của các giáo hội khác.
 
Ban đầu, chỉ có quân nhân là có thể tiến vào thôn xóm của thổ dân, không có các chức sắc tôn giáo hoạt động trong các thôn xóm này, đến khi linh mục Jacinto Esquivel đến Đài Loan, mới được phép vào thôn xóm truyền giáo. Để tiện cho việc truyền giáo, Jacinto Esquivel đã biên tập ra "Từ vựng tiếng Tamsui" (Vocabularino de la lengua de los Indios Tanchui en la Isla Hermosa) cùng "sách giáo lý tiếng Tamsui" (Doctrina cristiana en la lengua de los Indios Tanchui en la Isla Hermosa), song hai cuốn sách đến nay đã thất lạc.<ref>中村孝志原著,賴永祥譯, [http://www.laijohn.com/works/work7-5.pdf 〈十七世紀西班牙人在臺灣的佈教〉],頁125</ref> Để bồi dưỡng và nuôi các giáo sĩ truyền giáo, với sự hỗ trợ của Juan de Alcarazo, Jacinto Esquivel đã thành lập Thánh Từ bi Huynh đệ hội (Hermandad de la Misericordia), chức hội trưởng đều do trưởng quan đảm nhiệm;<ref>《西班牙人在臺灣》,頁79-80</ref> Ông cũng dự tính thành lập [[chủng viện (Công giáo)|chủng viện]], song cuối cùng đã không thực hiện được.
 
Ban đầu, phạm vi truyền giáo của người Tây Ban Nha chỉ giới hạn ở các bộ lạc phụ cận các pháo đài Tamsui và Kelung, sau khi người Tây Ban Nha khuếch trương thế lực, các giáo sĩ truyền giáo bắt đầu di chuyển đến trung du và thượng du [[sông Đạm Thủy|sông Tamsui]] và Nghi Lan ngày nay, thậm chí còn không dùng binh sĩ đi cùng, có thể an toàn làm lễ [[Thanh Tẩy]] ở vùng đất của các bộ lạc thổ dân.<ref> Tonio Andrade原著,鄭維中譯,《福爾摩沙如何變成臺灣府》,臺北:遠流,頁181-182</ref> Song tình cảnh thuận lợi này đã không thể kéo dài, theo sau việc quân Tây Ban Nha triệt thoái đáng kể khỏi Bắc Đài Loan, các giáo sĩ truyền giáo không còn có khả năng đi xa khỏi pháo đài để phục vụ cho việc truyền giáo.
 
Về cơ bản, trên cơ sở cân nhắc an toàn của bộ lạc, thổ dân sẵn sàng tiếp nhận Công giáo. Nếu có giáo sĩ truyền giáo trong thôn xóm thì các binh sĩ Tây Ban Nha rõ ràng sẽ không đến quấy nhiễu họ, họ cũng có thể hợp lực với người Tây Ban Nha đối kháng với bộ lạc đối địch.<ref>《福爾摩沙如何變成臺灣府》,頁176-177</ref> Tuy nhiên, do tư tưởng thù nghịch giữa các bộ lạc có bất đồng, đã gây cản trở cho việc truyền giáo tiến triển. Chỉ cần giáo sĩ truyền giáo đến chỗ bộ lạc đối địch, họ sẽ tạo ra sự thù địch, thành quả lập tức biến mất, thậm chí có giáo sĩ truyền giáo còn bị sát hại.<ref>《西班牙人在臺灣》,頁84、《福爾摩沙如何變成臺灣府》,頁176-177</ref> Mặc dù có không ít giáo sĩ truyền giáo đến Đài Loan, song họ nhận định rằng nhiệm vụ chính là đến Trung Quốc và Nhật Bản truyền giáo, còn Đài Loan chỉ như một bàn đạp để đi vào hai nơi này.<ref>《西班牙人在臺灣》,頁90</ref> Vì vậy, thời gian lưu lại trên đảo của các giáo sĩ không dài, khó mà đạt được thành quả đáng kể.
 
== Trưởng quan ==
#Antonio Carreño de Valdes, nhậm chức năm 1626
#Juan de Alcarazo, nhậm chức ở Kelung năm 1630
#Luis de Guzmân, nhậm chức ở Tamsui năm 1630
#Alonso Garcia Romero, nhậm chức ở Kelung năm 1634
#Sargeant Uajor, nhậm chức ở Tamsui năm 1634
#Franciso Hernândez, nhậm chức ở Tamsui năm 1637
#Pedro Palomino, nhậm chức ở Kelung năm 1939
#Gonzaro Portillo, nhậm chức ở Kelung năm 1940
 
== Tham khảo ==