Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ngũ Đài sơn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Liên kết ngoài: Thêm thể loại using AWB
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 17:
| caption = Ngũ Đài sơn chụp từ không trung
| elevation = 3.058 m (10.033 ft)
| location = [[Sơn Tây, (Trung Quốc)|Sơn Tây]]
| prominence =
| coordinates = {{coord|39|0|N|113|35|E|type:mountain_region:CN}}
Dòng 23:
| easiest_route = Đi bộ
| translation = Núi năm đài
| language = [[tiếng Trung Quốc|tiếng Trung]]
}}
'''Ngũ Đài sơn''' ({{zh-cpl|c=五台山|p=Wǔtái Shān|l=Núi năm đài}}), còn gọi là '''Thanh Lương sơn''' (清凉山), nằm trong địa phận huyện [[Ngũ Đài]], địa cấp thị [[Hãn Châu]], tỉnh [[Sơn Tây, (Trung Quốc)|Sơn Tây]], [[Trung Quốc]], là một trong [[Các núi linh thiêng của Trung Quốc|tứ đại Phật giáo danh sơn]] tại Trung Quốc. Núi này là nơi có nhiều chùa chiền, tự viện quan trọng nhất Trung Quốc. Khu di sản văn hóa Ngũ Đài Sơn bao gồm 53 chùa, được đưa vào danh sách [[di sản thế giới]] của [[Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc|UNESCO]] năm 2009<ref>[http://whc.unesco.org/en/news/523 China’s sacred Buddhist Mount Wutai inscribed on UNESCO’s World Heritage List. UNESCO World Heritage Centre]</ref>.
 
Mỗi một trong số 4 núi (Ngũ Đài Sơn, Nga Mi Sơn, Cửu Hoa Sơn, Phổ Đà Sơn) đều được coi là nơi ở hay nơi tu luyện (道場: đạo tràng) của một trong số bốn vị [[bồ Tát|bồ tát]] là [[Văn-thù-sư-lợi|Văn Thù]], [[Phổ Hiền]], [[Địa Tạng Bồ Tát|Địa Tạng]] và [[Quan Âm|Quan Thế Âm]].
 
Ngũ Đài Sơn gắn liền với Văn Thù bồ tát (文殊). Ngũ Đài Sơn cũng có quan hệ lâu dài với [[Phật giáo Tây Tạng]]<ref>Tuttle Gray (2006). [http://www.thlib.org/collections/texts/jiats/02/pdfs/tuttleJIATS_02_2006.pdf Tibetan Buddhism at Ri bo rtse lnga/Wutai shan in Modern Times]. ''Journal of the International Association of Tibetan Studies'', số 2 (tháng 8 năm 2006): tr. 1-35. Tra cứu: 29-6-2009.</ref>.
Dòng 45:
Ngũ Đài Sơn cũng là quê hương của một số công trình kiến trúc bằng gỗ cổ nhất hiện còn tồn tại ở Trung Quốc, có từ thời kỳ [[nhà Đường]] (618-907). Trong số này có sảnh chính của chùa Nam Sơn và sảnh đông của chùa Phật Quang, được xây dựng tương ứng vào các năm 782 và 857. Chúng được một nhóm các nhà sử học kiến trúc phát hiện năm 1937 và 1938, trong đó có cả sử gia nổi tiếng đầu thế kỷ 20 là [[Lương Tư Thành]] (1901-1972). Thiết kế kiến trúc của các công trình xây dựng này được các nhà Hán học và các chuyên gia hàng đầu về kiến trúc Trung Hoa truyền thống, như Nancy Steinhardt, nghiên cứu kể từ đó tới nay. Steinhardt đã phân loại các công trình xây dựng này theo các kiểu sảnh đặc trưng trong cẩm nang hướng dẫn về xây dựng của người Trung Quốc là ''[[Doanh tạo pháp thức]]'' được viết trong thế kỷ 12.
 
Năm 2008, chính quyền Trung Quốc hi vọng rằng tổ hợp chùa chiền trên Ngũ Đài Sơn sẽ được đưa vào danh sách [[di sản thế giới]] của [[Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc|UNESCO]]. Tuy nhiên, một số cư dân địa phương lại than phiền rằng họ bị buộc phải di dời nhà cửa đến nơi khác để chuẩn bị cho việc công nhận này<ref>[http://www.guardian.co.uk/world/video/2008/mar/13/wutai.shan Down from the mountain]</ref><ref>[http://www.guardian.co.uk/world/2008/mar/13/china1 Mountain residents bulldozed out of government's world heritage vision]</ref>.
 
== Các chùa chiền chính ==
Tổng cộng có 39 chùa chiền trong khu vực bên trong Ngũ Đài Sơn và 8 chùa chiền bên ngoài Ngũ Đài Sơn. Ngũ Đài sơn là nơi duy nhất có sự kết hợp các dòng Phật giáo của người Hán bản địa với các dòng Phật giáo từ [[Tây Tạng]] và [[Nội Mông|Nội Mông Cổ]] nên được các dân tộc ít người tại Trung Quốc rất tôn sùng.
 
Chùa Nam Sơn (南山寺) là chùa lớn nhất trên Ngũ Đài Sơn, xây dựng từ thời [[nhà Nguyên]]. Chùa bao gồm 7 tầng, chia ra làm 3 phần. Ba tầng thấp nhất được gọi là ''Cực Lạc tự'' (极乐寺); tầng giữa gọi là ''Thiện Đức đường'' (善德堂); ba tầng trên gọi là ''Hữu Quốc tự'' (佑国寺). Các chùa chiền chính khác còn có chùa Hiển Thông, chùa Tháp Viện và Bồ Tát đính.