Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người Buryat”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n clean up, replaced: |left| → |trái|, [[File: → [[Tập tin: (3), {{Reflist}} → {{Tham khảo}} using AWB
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 23:
|pop6 = 100
|ref6 =
|rels=[[Phật giáo Tây Tạng]] ("[[Phật giáo Tây Tạng|Lạt-ma giáo]]"), [[Shaman giáo]].
|langs=[[Tiếng Buryat]], [[Tiếng Nga]]
|related= [[Người Mông Cổ Barga|Barga]], [[Người Mông Cổ|Mông Cổ]], [[Người bản địa Alaska]], [[người Quileute|Quileute]], [[người Tuva|Tuva]], [[người Khaka|Khaka]], [[người Yupik Siberi|Yupik Siberi]], [[người Altay|Altay]], [[Aleut]].
}}
'''Buryat''' hay '''Buriyad''' ([[tiếng Buryat]]: Буряад, ''Buryaad''), có dân số khoảng 500.000, là nhóm dân tộc bản địa lớn nhất tại vùng [[Xibia|Siberia]], hầu hết tập trung tại quê hương của họ là [[Buryatia|Cộng hòa Buryatia]], một [[chủ thể liên bang]] của [[Nga]]. Họ là phân nhóm miền Bắc chính của [[người Mông Cổ]] .<ref>''The New Encyclopædia Britannica'', 15th Edition. (1977). Vol. II, p. 396. ISBN 0-85229-315-1.</ref> Người Buryat có chung nền văn hóa với các nhóm người Mông Cổ khác như chăn nuôi du mục, và sử dụng [[người M'Nông|ger]] làm nơi sinh sống. Ngày nay, phần lớn người Buryat sống bên trong và xung quanh [[Ulan-Ude]], thủ đô cua nước cộng hòa, mặc dù vậy một số vẫn có cuộc sống truyền thống ở vùng đồng quê. họ nói một phương ngữ của [[tiếng Mông Cổ]] được gọi là [[tiếng Buryat]].<ref>http://www.ethnologue.com/show_family.asp?subid=90485</ref>
 
==Lịch sử==
Người Buryat có nguồn gốc từ người Eskimo Siberi định cư ở khu vực [[hồ Baikal]]. Sau đó, vào thế kỷ 13, người Mông Cổ đến và nô dịch hóa các bộ lạc Buryat quanh hồ Baikal. Tên gọi "Buriyad" được kể đến là một trong những dân tộc sống trong rừng lần đầu trong ''[[Mông Cổ bí sử]]'' (có thể là năm 1240).<ref>Erich Haenisch, ''Die Geheime Geschichte der Mongolen'', Leipzig 1948, p. 112</ref> Thư tịch này nói rằng [[Truật Xích]], con trai cả của [[Thành Cát Tư Hãn]], đac hành quân lên phía bắc để chinh phục người Buryat vào năm 1207.<ref>Owen Lattimore-The Mongols of Manchuria, p. 165</ref> Người Buryat lúc đó sống dọc theo sông Angara và các chi lưu. Trong ki đó, một bộ phận của họ, [[người Mông Cổ Barga|Barga]], xuất hiện ở cả phía tây Baikal và ở phía bắc thung lũng Barguzin thuộc [[Cộng hòa Buryatia|Buryatia]] ngày nay. Liên hệ với người Bargas là người Khori-Tumed sống dọc sông Arig ở phía đông [[Khövsgöl (tỉnh)|Khövsgöl]] và [[sông Angara|Angara]].<ref>C.P.Atwood-Encyclopedia of Mongolia and the Mongol Empire, p. 61</ref> Một cuộc nổi dậy nổ ra vào năm 1217, khi Thành Cát Tư Hãn cho phép một người của mình bắt 30 trinh nữ Tumad song đã bị dập tắt. Người Buryat gia nhập vào người Oirat và thách thức quyền cai trị của [[người Mông Cổ Khalkha|người Mông Cổ Đông]] vào thời [[Bắc Nguyên]] cuối thế kỷ 14.<ref>D. T︠S︡ėvėėndorzh, Tu̇u̇khiĭn Khu̇rėėlėn (Mongolyn Shinzhlėkh Ukhaany Akademi) – Mongol Ulsyn tu̇u̇kh: XIV zuuny dund u̇eės XVII zuuny ėkhėn u̇e, p. 43</ref>
 
[[Tập tin:Buryatia01.png|trái|thumb]]