Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người Daur”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Lịch sử: chú thích, replaced: {{cite news → {{chú thích báo
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 6:
|rels=[[Phật giáo Tây Tạng]], [[Shaman giáo]]
|langs=[[Tiếng Daur]]
|related=[[Khiết Đan|Người Khiết Đan]], [[Người Mông Cổ]]
}}
 
'''Người Daur''' ([[Chữ Hán phồn thể|Phồn thể]]: 達斡爾族, [[Chữ Hán giản thể|Giản thể]]: 达斡尔族, [[Bính âm Hán ngữ|Bính âm]]: Dáwò'ěr zú, [[Từ Hán-Việt|Hán Việt]]: Đạt Oát Nhĩ tộc) cũng từng được gọi là ''"Dahur"'' là một trong 56 dân tộc được công nhận chính thức tại [[Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]]. Dân số của dân tộc này là 132.394 theo thống kê năm (2000), và hầu hết trong số họ sống ở [[Kỳ tự trị dân tộc Daur Morin Dawa]] (''Mòlì Dáwǎ Dáwò'ěrzú Zìzhìqí'' 莫力達瓦達斡爾族自治旗/莫力达瓦达斡尔族自治旗) tại [[Hô Luân Bối NhĩHulunbuir|Hulun Buir]], [[Nội Mông]]. Ngoài ra, một số người Daur cũng sinh sống tại [[Tacheng]], [[Tân Cương]] do quá trình di cư từ đời nhà Thanh. [[Tiếng Daur]] là một phần của [[nhóm ngôn ngữ Mông Cổ]]. Ngôn ngữ này không có chữ viết chuẩn, mặc dù một cách đọc dựa trên cơ sở Bính âm đã được học giả người gốc Daur Merden Enhebatu phát triển.
 
== Lịch sử ==
Về mặt di truyền, người Daur là hậu duệ của [[khiết Đan|người Khiết Đan]], và điều này đã được chứng minh qua các phân tích ADN gần đây.<ref name=Li>{{chú thích báo |title=DNA Match Solves Ancient Mystery|author=Li Jinhui|newspaper=china.org.cn|date=08/02/2001|url=http://china.org.cn/english/2001/Aug/16896.htm}}</ref> Trong thế kỷ 17, một số hoặc tất cả những người Daurs sống dọc theo sông Shilka, thượng lưu sông Amur, và ven sông Zeya. Họ dùng tên dân tộc mình để đặt tên cho vùng đất Dauria, còn được gọi là Transbaikal, mà nay là lãnh thổ của Nga ở phía đông của hồ Baikal. Đối mặt với sự lấn chiếm của Nga trong khu vực Amur, từ năm 1654 đến 1656, trong thời cai trị của Hoàng đế Thuận Trị, người Daur đã bị buộc phải di chuyển xuống phía Nam và định cư bên bờ Nộ Hà, từ đó họ đã liên tục nhập ngũ để phục vụ trong hệ thống [[Bát Kỳ]] của hoàng đế nhà Thanh. Khi quân Nhật xâm chiếm Mãn Châu vào năm 1931, người Daur đã tiến hành một cuộc kháng cự mạnh mẽ chống lại quân xâm lược.
 
== Văn hóa ==