Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ngụy (nước)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 53:
:''Xem chi tiết:'' [[Tấn (nước)]]
 
Theo huyền sử thì thủy tổ các đời quân chu nước Ngụy vốn họ Cơ, hậu duệ của [[Tất công Cao]], con [[Chu Vũ vương]], từ đó lấy họ Tất, nhiều đời làm trọng thần thời [[Nhà Chu|Tây Chu]]. Đến cuối thời Tây Chu, Tất quốc bị quân Tây Nhung diệt vong, hậu duệ Tất công Cao sang tị nạn ở nước Tấn, phục vụ cho các vua Tấn thời Xuân Thu. Đến thời Tất Vạn, do công lao phò tá [[Tấn Hiến công]] tiêu diệt các nước Hoạch, Ngụy và Cảnh, được phong làm đại phu và được phong đất Ngụy cũ để làm thực ấp, từ đó lấy Ngụy làm họ.
 
Từ thời [[Tấn Văn công|Tấn Văn Công]], do có nhiều công lao giúp vua Tấn làm bá chủ chư hầu, thế lực họ Ngụy ngày càng lớn mạnh. Trong thời gian dài nước Tấn làm bá chủ, nhiều thế hệ họ Ngụy tiếp tục đóng vai trò khanh tướng trong bộ máy chính quyền nước Tấn. Họ Ngụy với họ Triệu, họ Hàn, họ Trí, họ Trung Hàng và họ Phạm dần dần nắm giữ các chức vụ quan trọng trong nước, lấn át quyền lực vua Tấn, được gọi chung là [[Lục khanh]].
 
Sau đó Lục khanh tranh chấp quyền lực và tiêu diệt lẫn nhau, Ngụy tồn tại được qua cuộc chiến nhiều năm này, cùng 2 họ Hàn và Triệu. Năm 403 TCN, trước thực tế là thế lực của 3 họ đã rất lớn mạnh, [[Chu Uy Liệt Vương|Chu Uy Liệt vương]] phong cho 3 họ làm '''[[chư hầu]]'''. Năm 376 TCN, Ngụy cùng Hàn và Triệu chiếm nốt phần đất còn lại của vua Tấn Tĩnh công, tiêu diệt hoàn toàn nước Tấn.
 
Năm 403 TCN đánh dấu mốc thành lập chính thức của nước Ngụy.
Dòng 64:
Nước này tiếp giáp về phía tây với nước [[Tần (nước)|Tần]], về phía đông với nước [[Tề (nước)|Tề]], về phía tây nam là nước [[Hàn (nước)|Hàn]], về phía nam là nước [[Sở (nước)|Sở]] và về phía bắc là nước [[Triệu (nước)|Triệu]].
 
Lãnh thổ của nước Ngụy bao gồm các khu vực ngày nay là bắc [[Hà Nam, (Trung Quốc)|Hà Nam]], nam [[Sơn Tây, (Trung Quốc)|Sơn Tây]] và phần lớn các tỉnh [[Hà Bắc, (Trung Quốc)|Hà Bắc]], [[Thiểm Tây]].
 
Sau khi dời đô từ An Ấp (nay ở phía tây bắc huyện [[Hạ (huyện)|Hạ]] tỉnh Sơn Tây) tới Đại Lương (nay là [[Khai Phong]]) trong thời kỳ trị vì của [[Ngụy Huệ Thành vương]] (369 TCN-319 TCN), thì nước Ngụy còn được gọi là ''Lương''.
Dòng 88:
===danh sách thủ lĩnh họ Ngụy trước khi lập quốc===
 
1 - [[Tất Vạn]] ( vốn tên là Cơ Vạn - hậu duệ [[Tất Công Cao]] - được [[Tấn Hiến công|Tấn Hiến Công]] thưởng cho ấp Ngụy, chính là nước [[Ngụy thời Xuân Thu]] đã bị nước [[Tấn]] diệt trước đó ít lâu - từ đó đổi làm họ Ngụy )
 
2 - Ngụy [[Ngụy Mang Quý|Mang Quý]] ( không rõ thụy hiệu - con Tất Vạn, [[Sử Ký (định hướng)|Sử Ký]] nói rằng Vũ Tử là con Tất Vạn không có đời Mang Quý )
 
3 - Ngụy Vũ Tử ( tên thật là [[Ngụy Sưu]] hoặc Ngụy Châu - con Mang Quý - được Tấn Văn Công thăng làm đại phu )
Dòng 104:
8 - Ngụy Giản Tử ( tên thật là [[Ngụy Thủ]] - con Hiến Tử )
 
9 - Ngụy Tương Tử ( tên thật là [[Ngụy Mạn Đa|Ngụy Xỉ]] hoặc Mạn Đa - con Giản Tử, Sử Ký lại nói là con Hiến Tử - cùng họ Triệu đuổi [[phạm (họ)|họ Phạm]] và [[họ Trung Hàng]] ra khỏi nước Tấn )
 
10 - Ngụy Hoàn Tử hoặc Tuyên Tử ( tên thật là [[Ngụy Câu]] - con Tương Tử, Sử Ký lại nói là con Tương Tử - cùng 2 họ [[Hàn]] và [[Triệu]] tiêu diệt [[Trí Bá Dao]] )
 
11 - Ngụy Văn Tử ( tên thật là Ngụy Tư - con Hoàn Tử - năm 403 tr.CN được nhà [[Chu]] phong hầu, chính là [[Ngụy Văn hầu|Ngụy Văn Hầu]] - vua đầu tiên của nước [[Ngụy]] thời [[Chiến Quốc]] )
 
==Danh sách các vị quân chủ của Ngụy==