Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhiên liệu hóa thạch”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Tham khảo: clean up, replaced: {{reflist| → {{Tham khảo|
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
{{1000 bài cơ bản}}[[Tập tin:Coal.jpg|nhỏ|phải|Than là một trong những nhiên liệu hóa thạch.]]
 
'''Nhiên liệu hóa thạch''' là các loại nhiên liệu được tạo thành bởi quá trình [[phân hủy kỵ khí]] của các [[sinh vật]] chết bị chôn vùi cách đây hơn 300 triệu năm.<ref name="umich">{{Chú thích web|url=http://www.umich.edu/~gs265/society/fossilfuels.htm|title=Fossil Fuels|last=David Shannon|first=Osman Chughtai |accessdate=2009-04-22}}</ref> Các nguyên liệu này chứa hàm lượng [[cacbon]] và [[hiđrôcacbon|hydrocacbon]] cao.
 
Các nhiên liệu hóa thạch thay đổi trong dải từ [[chất dễ bay hơi]] với tỷ số [[cacbon]]:[[hiđrô|hydro]] thấp như [[mêtan|methane]], [[dầu hỏa]] dạng lỏng, đến các chất không bay hơi chứa toàn là cacbon như [[than đá]]. Methane có thể được tìm thấy trong các mỏ hydrocacbon ở dạng riêng lẻ hay đi cùng với dầu hỏa hoặc ở dạng [[methane clathrates]]. Về tổng quát chúng được hình thành từ các phần còn lại của thực vật và động vật bị [[hóa thạch]]<ref>{{Chú thích web|author=Dr. Irene Novaczek|title=Canada's Fossil Fuel Dependency|url=http://www.elements.nb.ca/theme/fuels/irene/novaczek.htm|publisher=Elements|accessdate =2007-01-18}}</ref> khi chịu áp suất và nhiệt độ bên trong vỏ Trái Đất hàng triệu năm.<ref>{{Chú thích web|title=Fossil fuel|url=http://oaspub.epa.gov/trs/trs_proc_qry.navigate_term?p_term_id=7068&p_term_cd=TERM|publisher=EPA|accessdate=2007-01-18}}</ref> [[Dầu mỏ#Thuyết sinh vật học|Học thuyết phát sinh sinh vật]] được [[Georg Agricola]] đưa ra đầu tiên vào năm 1556 và sau đó là [[Mikhail Vasilyevich Lomonosov|Mikhail Lomonosov]] vào thế kỷ 18.
 
[[Cơ quan thông tin năng lượng Hoa Kỳ]] (EIA) ước tính năm 2006 rằng nguồn năng lượng nguyên thủy bao gồm 36,8% dầu mỏ, than 26,6%, khí thiên nhiên 22,9%, chiếm 86% nhiên liệu nguyên thủy sản xuất trên thế giới. Các nguồn nhiên liệu không hóa thạch bao gồm [[thủy điện]] 6,3%, [[năng lượng hạt nhân]] 6,0%, và [[năng lượng địa nhiệt]], [[năng lượng Mặt Trời|năng lượng mặt trời]], [[năng lượng gió]], [[nhiên liệu gỗ]], [[tái chế chất thải]] chiếm 0,9%.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.eia.doe.gov/iea/overview.html|title=International Energy Annual 2006|accessdate=2009-02-08}}</ref> Tiêu thụ năng lượng trên thế giới tăng mỗi năm khoảng 2,3%.
 
Các nhiên liệu hóa thạch là [[tài nguyên không tái tạo]] bởi vì trái đất mất hàng triệu năm để tạo ra chúng và lượng tiêu thụ đang diễn ra nhanh hơn tốc độ được tạo thành. Sản lượng và tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch làm tăng các mối quan tâm về môi trường. Thế giới đang hướng tới sử dụng các nguồn [[năng lượng tái tạo]] là một trong những cách giúp giải quyết vấn đề tăng nhu cầu năng lượng.{{Fact|date=April 2009}}
 
Việc đốt nhiên liệu hóa thạch tạo ra khoảng 21,3 tỉ tấn [[cacbon điôxít|carbon dioxide]] hàng năm, nhưng người ta ước tính rằng các quá trình tự nhiên có thể hấp thu phân nửa lượng khí thải trên, vì vậy hàm lượng cacbon dioxit sẽ tăng 10,65 tỉ tấn mỗi năm trong khí quyển (một tấn cacbon tương đương 44/12 hay 3,7 tấn cacbon đioxit).<ref>{{Chú thích web|url= http://www.eia.doe.gov/oiaf/1605/ggccebro/chapter1.html|title=US Department of Energy on greenhouse gases|accessdate=2007-09-09}}</ref> Cacbon đioxit là một trong những [[khí nhà kính]] làm tăng [[lực phóng xạ]] và góp phần vào [[ấm lên toàn cầu|sự nóng lên toàn cầu]], làm cho [[nhiệt độ trung bình bề mặt]] của Trái Đất tăng.
 
== Nguồn gốc ==
Nhiên liệu hóa thạch được hình thành từ quá trình [[phân hủy kỵ khí]] của xác các sinh vật, bao gồm [[thực vật phù du]] và [[động vật phù du]] lắng đọng xuống đáy biển (hồ) với số lượng lớn trong các [[nước biển thiếu ôxy|điều kiện thiếu ôxy]], cách đây hàng triệu năm. Trải qua [[niên đại địa chất|thời gian địa chất]], các [[hợp chất hữu cơ]] này trộn với [[bùn]], và bị chôn vùi bên dưới các lớp trầm tích nặng. Trong điều kiện nhiệt độ và áp suất cao làm cho các vật chất hữu cơ bị [[hình thành đá trầm tích|biến đổi]] hóa học, đầu tiên là tạo ra [[kerogen]] ở dạng sáp. Chúng được tìm thấy trong các [[đá phiến sét dầu]] và sau đó khi bị nung ở nhiệt cao hơn sẽ tạo ra hydrocacbon lỏng và khí bởi quá trình [[phát sinh ngược (địa chất)|phát sinh ngược]].
 
Ngược lại, [[thực vật có phôi|thực vật đất liền]] có xu hướng tạo thành [[than (định hướng)|than]]. Một vài mỏ than được xác định là có niên đại vào [[kỷ Creta|kỷ Phấn trắng]].
 
Các ví dụ so sánh tương đối:
Dòng 22:
== Sự quan trọng ==
[[Tập tin:Gulf Offshore Platform.jpg|150px|nhỏ|phải|Giếng dầu ở [[Vịnh Mexico]]]]
Nhiên liệu hóa thạch có vai trò rất quan trọng bởi vì chúng có thể được dùng làm chất đốt (bị [[ôxi hóa]] thành [[cacbon điôxít|điôxít cacbon]] và nước) để tạo ra năng lượng. Việc sử dụng [[than (định hướng)|than]] làm nhiên liệu đã diễn ra rất lâu trong lịch sử. Than được sử dụng để nấu chảy quặng kim loại. Các hydrocacbon bán rắn rò rỉ lên mặt đất cũng được dùng làm chất đốt trong thời cổ đại,<ref>{{Chú thích web|url= http://www.britannica.com/ebc/article-50695 |title=Encyclopedia Britannica, use of oil seeps in accient times|accessdate=9-9-2007}}</ref> nhưng các vật liệu này hầu hết được sử dụng làm chất chống thấm và [[xác ướp|ướp xác]].<ref>{{chú thích | last = Bilkadi | first = Zayn | year =1994 | title = BULLS FROM THE SEA : Ancient Oil Industries | publisher = Aramco World | url = http://www.gr8dubai.com/oil2.htm | accessdate =9-9-2007}}</ref>
Khai thác [[dầu mỏ]] thương mại, phần lớn là sự thay thế cho dầu có nguồn gốc động vật (như [[dầu cá]]) để làm chất đốt cho các loại đèn dầu bắt đầu thừ thế kỷ 19.<ref>{{Chú thích sách |last=Ball |first=Max W. |authorlink= |coauthors=Douglas Ball, Daniel S. Turner |title=This Fascinating Oil Business |year=1965 |publisher=Bobbs-Merrill |location=Indianapolis |isbn=0-672-50829-X}}</ref>
 
[[Khí thiên nhiên]] đã có thời kỳ bị đốt bỏ trên các giàn khoan dầu và được xem là sản phẩm không cần thiết của quá trình khai thác dầu mỏ, nhưng bây giờ được quan tâm rất nhiều và được xem là tài nguyên rất có giá trị.<ref>{{cite conference | first = Rashad, Director Oil, Gas, Mining and Chemicals Dept, World Bank | last = Kaldany | date = ngày 13 tháng 12 năm 2006 | title = Global Gas Flaring Reduction: A Time for Action! | conference = Global Forum on Flaring & Gas Utilization | location = Paris | url = http://www.worldbank.org/html/fpd/ggfrforum06/kadany.pdf |format=PDF| accessdate = 9-9-2007}}</ref>
 
[[Dầu thô nặng]] là một loại dầu có độ nhớt lớn hơn dầu thô, còn được gọi là [[dầu cát]]. Dầu cát là loại [[bitumen]] bị trộn lẫn với cát và sét, và là nguồn nhiên liệu hóa thạch quan trọng.<ref>{{Chú thích web| url= http://www.prlog.org/10026386-oil-sands-global-market-potential-2007.html|title= Oil Sands Global Market Potential 2007 | accessdate=9-9-2007}}</ref> [[Đá phiến dầu|Phiến sét dầu]] và các vật liệu tương tự là các đá [[trầm tích]] chứa [[kerogen]], một hỗn hợp của các hợp chất hữu cơ cao phân tử, và là chất sinh ra [[nhiên liệu tổng hợp|dầu thô tổng hợp]] khi bị [[nhiệt phân]]. Các vật liệu này chưa được khai thác thương mại.<ref>{{Chú thích web|url= http://www.fossil.energy.gov/programs/reserves/npr/NPR_Oil_Shale_Program.html|title= US Department of Energy plans for oil shale development|accessdate=9-9-2007}}</ref> Các nhiên liệu này được dùng cho các [[động cơ đốt trong]], [[nhà máy điện dùng nhiên liệu hóa thạch]] và các mục đích khác.
 
[[Tập tin:Grangemouth04nov06.jpg|nhỏ|100px|phải|Nhà máy hóa dầu ở [[Grangemouth]], [[Scotland]], [[Vương quốc Anh]].]]
Trước nửa sau thế kỷ 18, [[cối xay gió]] hay [[cối xay nước]] đã cung cấp nhu cầu năng lượng cho ngành công nghiêp như nghiền [[bột mì]], [[nhà máy cưa gỗ|xẻ gỗ]] hoặc bơm nước, và đốt gỗ hoặc [[than bùn]] để cung cấp nhiệt dân dụng. Việc sử dụng nhiêu liệu hóa thạch ở phạm vi rộng, thì nhiên liệu đầu tiên là than, theo sau là dầu hỏa để vận hành các [[động cơ hơi nước]], và là đóng góp rất lớn cho cuộc [[cách mạng công nghiệp]]. Vào cùng thời gian đó, [[khí thiên nhiên|khí đốt]] sử dụng khí thiên nhiên hoặc [[khí than]] cũng được sử dụng rộng rãi. Việc phát minh ra [[động cơ đốt trong]] và lắp đặt nó trong [[ô tô]] và [[xe tải]] đã làm tăng cao nhu cầu sử dụng [[xăng]] và [[dầu diesel]], cả hai loại này đầu là sản phẩm chưng cất từ nhiên liệu hóa thạch. Các hình thức vận tải khác như [[đường ray|đường sắt]] và [[hàng không]] cũng đòi hỏi sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Các nguồn tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch khác như [[nhà máy điện]] và công nghiệp [[hóa dầu]]. [[Hắc ín]] là sản phẩm còn lại sau khi chiết tách dầu, cũng được dùng làm vật liệu trải đường.
 
== Hạn chế và nguyên liệu thay thế ==
Dòng 65:
{{bài chính|Biến đổi khí hậu}}
 
Ở Hoa Kỳ, có hơn 90% lượng [[khí nhà kính]] thải vào môi trường từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch.<ref>US EPA.2000. Inventory of U.S. Greenhouse Gas Emissions and Sinks: 1990-1998, Rep. EPA 236-R-00-01. US EPA, Washington, DC, http://www.epa.gov/globalwarming</ref> Đốt nhiên liệu hóa thạch cũng tạo ra các chất ô nhiễm không khí khác như các [[ôxít nitơ]], [[lưu huỳnh điôxit|điôxít lưu huỳnh]], [[hợp chất hữu cơ dễ bay hơi]] và các [[kim loại nặng]].
 
Theo Bộ Môi trường Canada:
Dòng 73:
[[Tập tin:Carbon Dioxide 400kyr.png|nhỏ|350px|Biến động hàm lượng điôxít cacbon trong thời gian 400.000 năm gần đây cho thấy sự gia tăng của nó kể từ khi bắt đầu cách mạng công nghiệp.]]
 
Đốt nhiên liệu hóa thạch tạo ra các axít như [[axít sulfuricsunfuric|sulfuric]], [[axítaxit cacbonic|cacbonic]] và [[axítaxit nitric|nitric]], các chất có nhiều khả năng tạo thành [[mưa axít]] và ảnh hưởng đến các vùng tự nhiên và hủy hoại môi trường. Các tượng điêu khắc làm bằng [[đá hoa|cẩm thạch]] và đá vôi cũng phần nào bị phá hủy do axít hòa tan [[canxi cacbonat|cacbonat canxi]].
 
Nhiên liệu hóa thạch cũng chứa các chất phóng xạ chủ yếu như [[urani]] và [[thori]], chúng được phóng thích vào khí quyển. Năm 2000, có khoảng 12.000 tấn thori và 5.000 tấn urani đã bị thải ra từ việc đốt than.<ref>[http://www.ornl.gov/info/ornlreview/rev26-34/text/colmain.html Đốt than: tài nguyên hay hiểm họa hạt nhân] - Alex Gabbard</ref> Người ta ước tính rằng trong suốt năm 1982, Hoa Kỳ đốt than đã thải ra gấp 155 lần so với chất phóng xạ thải vào khí quyển của sự cố [[Nhà máy điện hạt nhân đảo Three Mile|đảo Three Mile]].<ref>[http://www.physics.ohio-state.edu/~aubrecht/coalvsnucMarcon.pdf#page=8 Sự gia tăng hạt nhân từ việc đốt than] - Gordon J. Aubrecht, II, Đại học bang Ohio</ref>
Dòng 94:
* [[Xỉ tảng]]
* [[Dự trữ dầu]]
* [[Dầu mỏ|Dầu khí]]
</div>
{{Ấm lên toàn cầu}}