Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nước cường toan”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 2:
[[Tập tin:Aqua regia in Davenport Laboratories.jpg|phải|nhỏ|Nước cường toan mới pha chế dùng để khử cặn muối kim loại.]]
[[Tập tin:Golddust.jpg|nhỏ|phải|Kết tủa vàng nguyên chất được tạo thành từ quá trình lọc hoá chất bằng nước cường toan]]
'''Nước cường toan''' (''cường thủy'';Hán Việt: '''強酸水''','''強水'''; tên [[latinh|tiếng Latinh]] là ''aqua regia'', tức "nước hoàng gia") là chất ăn mòn mạnh, ở dạng lỏng, màu vàng, dễ bay hơi. Nó được tạo thành bằng cách trộn lẫn dung dịch [[axit nitric|axít nitric]] đậm đặc và dung dịch [[axit clohydric|axít clohiđric]] đậm đặc theo tỉ lệ 1:3. Nó là một trong số ít thuốc thử có khả năng hòa tan [[vàng]] và [[platin|bạch kim]]. Nó có tên gọi "aqua regia" vì đặc tính có thể hòa tan được những kim loại "hoàng tộc" hoặc "quý tộc", mặc dù [[tantali]], [[iridi]], và một vài kim loại cực kỳ thụ động khác không bị hòa tan trong nước cường toan. Nó được sử dụng trong việc khắc bằng axít và trong những thủ tục phân tích. Do có sự hình thành các chất dễ bay hơi là [[nitrosyl clorua]] (NOCl) và khí [[clo]], nước cường toan sẽ nhanh chóng mất tác dụng cho nên nó chỉ được pha trộn khi cần sử dụng.
{|
|[[Tập tin:Platin_loest_sich_in_heissem_Koenigswasser.JPG|nhỏ|trái|Bạch kim tan trong nước cường toan]] || __TOC__
Dòng 26:
:Pt<sup>4+</sup> ''(dung dịch)'' + 6 Cl<sup>-</sup> ''(dung dịch)'' → PtCl<sub>6</sub><sup>2-</sup> ''(dung dịch)''
 
Trong thực tế, phản ứng của bạch kim với nước cường toan phức tạp hơn. Những phản ứng ban đầu tạo ra hỗn hợp axít cloroplatinơ (H<sub>2</sub>PtCl<sub>4</sub>) và nitrosoplatinic clorua ((NO)<sub>2</sub>PtCl<sub>4</sub>). Nitrosoplatinic clorua là chất rắn. Nếu muốn hòa tan hoàn toàn bạch kim, thì phản ứng tạo ra kết tủa nitrosoplatinic clorua dư với [[axit clohydric|axít clohiđric]] đậm đặc phải được thực hiện lặp đi lặp lại nhiều lần.
 
:Pt ''(rắn)'' + 2 HNO<sub>3</sub> ''(dung dịch)'' + 4 HCl ''(dung dịch)'' → (NO)<sub>2</sub>PtCl<sub>4</sub> ''(kết tủa)'' + 3 H<sub>2</sub>O ''(lỏng)'' + 1/2 O<sub>2</sub> ''(khí)''
Dòng 36:
 
== Sự phân ly của nước cường toan ==
Nếu trộn lẫn dung dịch [[axit nitric|axít nitric]] đậm đặc và dung dịch [[axit clohydric|axít clohiđric]] đậm đặc thì các phản ứng hóa học sẽ bắt đầu xảy ra. Những phản ứng này tạo ra các chất dễ bay hơi là [[nitrosyl clorua]] (NOCl) và khí [[clo]], dẫn đến sự bốc khói tự nhiên của nước cường toan. Màu vàng của các chất này làm cho nước cường toan có màu vàng đặc trưng. Vì các chất tạo thành bay hơi khỏi dung dịch, nên nước cường toan sẽ mất hiệu nghiệm.
 
:HNO<sub>3</sub> ''(dung dịch)'' + 3 HCl ''(dung dịch)'' → NOCl ''(khí)'' + Cl<sub>2</sub> ''(khí)'' + 2 H<sub>2</sub>O ''(lỏng)''
Dòng 46:
== Lịch sử ==
[[Tập tin:Jabir ibn Hayyan.jpg|nhỏ|200px|phải|Chân dung Jabir ibn Hayyan, bản vẽ tay thời trung cổ, tác giả: Khuyết danh]]
Axít clohidric được phát hiện lần đầu tiên vào khoảng năm [[800]] bởi nhà giả kim người Hồi giáo [[Abu Musa Jabir Ibn Hayyan|Jabir Ibn Hayyan (Gaber)]], bằng cách trộn muối ăn với [[axít sunfuric|axít sulfuric]]. Phát minh của Jabir về nước cường toan, bao gồm axít clohiđric và axít nitric, đã đóng góp vào sự cố gắng tìm kiếm đá tạo vàng của những nhà giả kim thuật.
 
Khi [[Đức]] xâm chiếm [[Đan Mạch]] trong Chiến tranh thế giới thứ II, nhà hóa học người Hungary George de Hevesy đã hòa tan những huân chương Nobel bằng vàng của [[Max von Laue]] và [[James Franck]] vào nước cường toan để ngăn không cho bọn phát xít ăn cắp chúng. Ông đã cất giữ dung dịch sau phản ứng trên ngăn sách trong phòng thí nghiệm của mình tại học viện [[Niels Bohr]]. Sau chiến tranh, ông trở lại, thấy dung dịch không hề suy chuyển, tiến hành kết tủa để thu lại vàng ra khỏi axít. Số [[vàng]] này đã được hoàn trả về viện Hàn Lâm Khoa học Hoàng Gia Thụy Điển để đúc lại những huân chương mới cho Laue và Franck.[http://nobelprize.org/nobel/medals/index.html]