Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Olympique de Marseille”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 19:
|giải đấu = [[Giải vô địch bóng đá Pháp|Ligue 1]]
|mùa giải = [[Ligue 1 2011-12|2011-12]]
|vị trí = Hạng 10 [[Giải vô địch bóng đá Pháp|Ligue 1]]
|pattern_la1=_om_home_0809
|pattern_b1 =_marseilleh2010
Dòng 52:
}}
 
'''Olympique de Marseille''' (hay '''l'OM''' {{IPA|[lo'ɛmɘ]}} hoặc '''Marseille''') là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp tại thành phố [[Marseille]], Pháp; được thành lập năm 1899 và phần lớn chơi ở các giải bóng đá hàng đầu nước Pháp suốt lịch sử tồn tại. Marseille đã chín lần vô địch giải hạng nhất Pháp [[Giải vô địch bóng đá Pháp|Ligue 1]], mười lần đoạt [[CoupeCúp debóng Franceđá Pháp|Cúp nước Pháp]] và là đội bóng Pháp duy nhất từng đoạt chức vô địch [[Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu|UEFA Champions League]] sau trận thắng [[A.C. Milan|AC Milan]] 1-0 bằng bàn thắng của hậu vệ [[Basile Boli]] ngày 26 tháng 05 năm 1993.
 
Sau chức vô địch Cúp C1 này không lâu, OM bị phát hiện dính vào vụ bán độ đầy tai tiếng với đội bóng [[Valenciennes]] trong cùng mùa giải 1992-1993, kết quả là dù vô địch Pháp năm đó Marseille vẫn bị tước danh hiệu đồng thời bị phạt rớt xuống hạng nhì.
Dòng 58:
Từ mùa 1996-1997, Olympique Marseille trở lại chơi tại Giải hạng nhất Pháp Ligue 1. Phải đến mùa giải 2009 - 2010, Marseille mới lại giành được chức vô địch quốc gia Pháp.
 
Sân vận động [[Sân vận động Vélodrome|Stade Vélodrome]] có sức chứa 60 031 khán giả là sân nhà của đội OM, nằm ở phía nam thành phố Marseille. OM đã chơi tại đây từ năm [[1937]]. Từ năm 1997, chủ sở hữu đội bóng là tỉ phú người [[Thụy Sĩ]] [[Robert Louis-Dreyfus]].
Áo thi đấu truyền thống của Olympique de Marseille có màu trắng với những đường viền phụ màu lục nhạt. Khẩu hiệu bằng tiếng Pháp của đội ''Droit Au But'' có nghĩa là ''"Thẳng tiến tới khung thành"'' được in trên áo cùng với một ngôi sao tượng trưng cho một chức vô địch Champions League đã giành được. Marseille còn là đội bóng được yêu thích nhất nước Pháp, có lực lượng cổ động viên trung thành rất hùng hậu thường lấp đầy các khán đài sân Stade Vélodrome giúp OM đạt số lượng trung bình khán giả đến sân lớn nhất tại Pháp, chẳng hạn chỉ số cho mùa 2007-2008 là 52 600 khán giả/trận.<ref name="tonykempster.co.uk">{{chú thích web | url=http://www.ligue1.com/ligue1/stat/affluence_club.asp?saison=2007/2008 | title=Attendances 2007/08 | publisher=ligue1.com | accessdate=2009-01-13 }}</ref>
Dòng 65:
=== Thời kì đầu ===
 
Theo ông André Gascard, người đã từng chơi bóng cho OM trước [[chiến tranh thế giới thứ nhất|thế chiến thứ nhất]], sau đó trở thành huấn luyện viên, tham gia công tác điều hành, rồi là người lưu trữ sử liệu của câu lạc bộ, thì Olympique de Marseille được thành lập bởi ông [[René Dufaure de Montmirail]]<ref name="L'histoire de l'OM">{{fr}} {{Chú thích web|url=http://www.om4ever.com/historiqueOM.html|title=L'histoire de l'Olympique de Marseille|publisher =om4ever.com|accessdate=2008-11-11}}</ref> vào năm [[1892]]<ref name="Gascard">{{fr}} {{Chú thích báo|tên bài=L'Olympique de Marseille|công trình =Football magazine|ngày=tháng 12 năm 1961|số=23|trang=12}}</ref>, nhưng đến năm 1899 đội mới sử dụng tên gọi như ngày nay là ''Olympique de Marseille''. Trước đó đội lần lượt mang tên ''Sporting Club'', ''US Phocéenne'', rồi ''Football Club de Marseille''. Các điều lệ của câu lạc bộ được đại hội thành viên thông qua vào [[tháng tám|tháng 8]] năm [[1899]]<ref name="Genèse">{{fr}} {{Chú thích sách|editor=L'Équipe|title=La grande histoire de l'OM (Des origines à nos jours)|first=Alain|last=Pécheral|year=2007|pages=tr. 10-11|isbn=2916400079}}</ref>. Khẩu hiệu "Thẳng tiến tới khung thành" (Droit au but) bắt nguồn từ môn [[bóng bầu dục]] vốn là môn thể thao chính của câu lạc bộ lúc bấy giờ.
 
Cũng theo [[André Gascard]], sau khi gia nhập [[Union des Sociétés Françaises de Sports Athlétiques|USFSA]] năm [[1898]], mãi đến năm [[1902]] nhờ người [[Anh]] và người [[Đức]] mà môn bóng đá mới bắt đầu được chơi tại ''l'OM''. Do có nguồn lực tài chính mạnh hơn và tổ chức tốt hơn các đội bóng khác cùng thành phố Marseille như Sporting, Stade, Phocéenne... nên OM đã trở thành câu lạc bộ thống trị làng túc cầu thành phố cảng lúc đó. Đội thời đó thi đấu ở sân [[stade de l'Huveaune]]<ref name="Huveaune">{{fr}} {{Chú thích sách|editor=L'Équipe|title=Olympique de Marseille - Un club à la une|author=Collectif|yẻa=2005|isbn=2915535019|pages=tr. 7}}</ref>.
 
Năm [[1904]]<ref name="USFSA">{{en}} {{Chú thích web|url=http://www.rsssf.com/tablesf/fran-prewwi.html|title=France 1892-1919|author=Frédéric Pauron|publisher=rsssf.com|date=2004-04-24|accessdate=2008-11-11}}</ref> đội giành chức vô địch Championnat du Littoral (Giải vô địch vùng Duyên hải) lần đầu sau khi đánh bại nhiều đội bóng khác ở Marseille và vùng phụ cận, rồi giành quyền dự vòng chung kết của giải vô địch bóng đá Pháp. Thời đó, từ "football" dùng cho môn bóng bầu dục, còn môn bóng đá được gọi là "association". Ở giải đấu cấp quốc gia, đội liên tiếp bốn lần thất bại tại trận bán kết vào các năm [[1904]], [[1905]], [[1906]], [[1908]].<ref name="USFSA"/> Nhưng tiếp tục vô địch vùng Duyên hải thêm năm năm liên tiếp nữa. Phải đến cuối [[thập niên 1910]], với sự trưởng thành của [[Stade Helvétique de Marseille]], OM mới hết làm mưa làm gió ở miền Nam nước Pháp. Stade Helvétique sau đó làm điều mà Olympique de Marseille không làm được là đoạt 3 chức vô địch giải bóng đá Pháp do USFSA tổ chức trước khi [[chiến tranh thế giới thứ nhất|thế chiến thứ nhất]] bùng nổ.<ref name="USFSA"/>
 
=== Thập niên 1920 ===
Dòng 75:
Từ [[thập niên 1920]], ''l'OM'' bắt đầu trở thành một đội bóng lớn tại Pháp. [[Marino Dallaporta]] trở thành chủ tich câu lạc bộ năm [[1921]] và mang về [[Marseille]] một số ngôi sao lớn<ref name="Huveaune"/>. Như tại mùa giải [[1923]]-[[1924]], hai tuyển thủ Pháp [[Édouard Crut]] và [[Jean Boyer (cầu thủ bóng đá)|Jean Boyer]] đã được chiêu mộ về từ [[Paris]].<ref>{{fr}} {{Chú thích web|url=http://www.om4ever.com/HistSaisons/1922-23.html|title=La Saison 1922-1923, l'OM recrute des vedettes|source=om4ever.com|accessdate=2008-11-11}}</ref>
 
Olympique de Marseille đã ngay lập tức có được danh hiệu quốc gia đầu tiên khi liên tiếp đoạt ba chiếc [[Cúp bóng đá Pháp]] vào các năm [[1924]], [[1926]] và [[1927]], trong đó chiếc cúp năm 1924 là danh hiệu quan trọng đầu tiên đội có được sau khi đánh bại kình địch [[FC Sète]], vốn là đội thống trị bóng đá Pháp thời đó, tại trận chung kết. Năm [[1929]], OM vô địch giải bóng đá nghiệp dư Pháp, tiền thân của [[Giải vô địch bóng đá Pháp|Ligue 1]] ngày nay<ref>{{fr}} {{Chú thích web|url=http://www.om4ever.com/LeMatch/29OMClubFrancais.htm|title=Finale du Championnat de France 1929 OM Club Français 3 à 2|work=om4ever.com|accessdate=2008-11-11}}</ref>. Thời gian này nhiều tuyển thủ của [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp|đội tuyển Pháp]] đang chơi bóng tại Marseille, như [[Jules Dewaquez]], [[Jean Boyer (footballer)|Jean Boyer]], [[Joseph Alcazar]]<ref name="OM history on its official site">{{chú thích web|url=http://www.om.net/fr/Club/501002/Histoire_de_l_OM/25675/Historique_de_l_OM|title=History of l'OM|date=2006-04-08|accessdate=2007-04-26|work=OM official site}}</ref>
 
Chính vì những thành tích trên mà OM là một trong hai mươi đội bóng được chọn để tham gia [[Giải vô địch bóng đá Pháp|giải vô địch bóng đá chuyên nghiệp]] đầu tiên của Pháp được tổ chức năm [[1932]]. Đội bắt đầu chuyển sang hoạt động theo quy chế chuyên nghiệp.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.om4ever.com/HistSaisons/1931-32.html|title=La Saison 1931/1932, l'OM Champion du Sud-Est adhère au professionnalisme|publisher=om4ever.com|accessdate=2008-11-11}}</ref>
Dòng 89:
=== Thập niên 1940 ===
 
Năm 1938 [[Larbi Ben Barek]] kí hợp đồng với ''l'OM'' rồi trở thành "viên ngọc đen" của đội, nhưng [[chiến tranh thế giới thứ hai|thế chiến thứ hai]] đã kết thúc sự nghiệp của ông. Mùa bóng 1942-1943 ghi nhận rất nhiều kỉ lục của đội: 100 bàn thắng trong 30 trận; thắng [[Avignon]] 20-2 trong đó riêng cầu thủ Aznar ghi 9 bàn (gồm 8 bàn đầu tiên giúp OM dẫn 8-0); Aznar ghi tổng cộng 56 bàn sau 38 trận ở cả hai giải vô địch quốc gia và cúp quốc gia.
 
Năm 1948 OM vô địch Pháp nhờ trận hòa [[FC Sochaux-Montbéliard|Sochaux]] cùng hai trận thắng quan trọng vào cuối mùa tại [[Sân vận động Vélodrome|Stade Vélodrome]] trước Roubaix (6-0) và [[FC Metz|Metz]] (6-3) khi có sự trở lại của Aznar và Robin vào mùa xuân.
 
Năm 1952 đội suýt rớt hạng nhưng 31 bàn thắng của [[Gunnar Andersson]] đã giúp đội thoát được. Năm 1953 Andersson lập kỉ lục ghi 35 bàn thắng trong một mùa, còn OM thua [[OGC Nice]] 1-2 trong trận chung kết cúp nước Pháp năm 1954. OM thi đấu rất vất vả thời kì này nên rớt xuống hạng nhì lần đầu năm 1959. Trừ mùa 1962-1963 chơi tại hạng nhất thì từ năm 1959 đến 1965 OM chơi tại hạng nhì. Năm 1965, [[Marcel Leclerc]] thành chủ tịch đội bóng.
Dòng 102:
=== Kỷ nguyên của Bernard Tapie và vụ bán độ OM/Valenciennes ===
[[Tập tin:Didier Deschamps.jpg|trái|nhỏ|Didier Deschamps là đội trưởng ''l'OM'' vô địch [[UEFA Champions League 1992-93]]]]
Ngày 12 tháng 4 năm 1986 nhờ sự hậu thuẫn của thị trưởng Marseille [[Gaston Defferre]], ông [[Bernard Tapie]] trở thành chủ tịch đội bóng, bắt đầu thời kì tạo nên đội hình mạnh nhất trong lịch sử bóng đá Pháp. Hai hợp đồng chất lượng đầu tiên ông mang về OM là [[Karl-Heinz Forster]] và [[Alain Giresse]] sau [[Giải vô địch bóng đá thế giới năm 1986]]. Những năm tiếp theo ông ký hàng loạt hợp đồng với rất nhiều danh thủ như [[Jean-Pierre Papin]], [[Chris Waddle]], [[Klaus Allofs]], [[Enzo Francescoli]], [[Abédi Pelé|Abedi Pelé]], [[Didier Deschamps]], [[Basile Boli]], [[Marcel Desailly]], [[Rudi Völler]], [[Eric Cantona]], cùng nhiều huấn luyện viên nổi tiếng như [[Franz Beckenbauer]], [[Gérard Gili]], [[Raymond Goethals]] với tham vọng mang về nhiều thành tích cho đội. Từ năm 1989 đến 1992, OM vô địch Ligue 1 bốn lần liên tiếp cùng một Cúp bóng đá Pháp. Đỉnh cao của OM thời kì này là chức vô địch [[UEFACúp Championscác Leagueđội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu|Champions League]] bằng bàn thắng của hậu vệ Basile Boli vào lưới AC Milan trong trận chung kết ngày 26 tháng 5 năm 1993 trên sân vận động Olympic tại [[München|Munich]], Đức. Đây cũng là chức vô địch Champions League duy nhất bóng đá Pháp đạt được đến bây giờ, đồng thời giúp [[Didier Deschamps]] trở thành đội trưởng trẻ nhất còn [[Fabien Barthez]] là thủ môn trẻ nhất từng đoạt danh hiệu này.
 
Thành công này không ngờ là điểm bắt đầu cho một thập niên xuống dốc của đội khi chủ tịch Tapie bị phát hiện đã dàn xếp một vụ bán độ tai tiếng bậc nhất trong lịch sử bóng đá Pháp, là [[vụ bán độ OM/VA]]. Ông đã mua chuộc các cầu thủ đội Valenciennes (VA) trước trận OM-VA mùa 1992-1993 nhằm đảm bảo OM sẽ thắng trận đồng thời không có cầu thủ nào bị thương trước trận chung kết Champions League với AC Milan diễn ra ngay sau đó. Hậu quả là OM bị tước chức vô địch Ligue 1 mùa 1992-1993, không được tham dự cúp châu Âu cũng như cúp liên lục địa mùa kế tiếp, đồng thời bị đánh rớt xuống giải hạng nhì Pháp [[Ligue 2]].
 
=== Con đường trở lại vinh quang? ===
Marseille trở lại hạng nhất năm 1996 do sự hậu thuẫn của ông chủ mới của đội [[Robert Louis-Dreyfus]] cũng là chủ hãng [[Adidas]]. Ông chọn [[Rolland Courbis]] làm huấn luyện viên, ký hợp đồng với các cầu thủ [[Fabrizio Ravanelli]], [[Laurent Blanc]], [[Andreas Köpke]] để cuối mùa bóng 1996-1997 OM xếp thứ 11. Mùa 1998-1999 OM kỉ niệm 100 năm thành lập với đội hình gồm những ngôi sao như [[Robert Pirès]], [[Florian Maurice]], [[Christophe Dugarry]], [[William Gallas]] và vị trí thứ hai sau [[FC Girondins de Bordeaux|Girondins Bordeaux]] tại Ligue 1. Cũng mùa này, đội lọt vào chung kết [[Cúp UEFA Europa League|UEFA Cup]] rồi thua [[Parma]] 0-3. Tháng 11 năm 1999, Courbis phải rời đội do khởi đầu mùa bóng mới khá thất vọng.
 
Năm 2004 OM lại vào trận chung kết cúp UEFA, sau khi lần lượt đánh bại [[Dnipro Dnipropetrovsk]], [[F.C. Internazionale Milano FS.Cp.A.|Inter Milan]], [[Liverpool F.C.|Liverpool]] and [[Newcastle United F.C.|Newcastle United]] đầy ấn tượng rồi lại thua [[Valencia CF|Valencia]] bấy giờ vừa vô địch Tây Ban Nha với tỉ số 0-2. Người hâm mộ OM lại phải tiếp tục chờ một chức vô địch quan trọng từ 1993 đến nay.
 
Tháng 1 năm 2007, doanh nhân Canada Jack Kachkar đàm phán với Dreyfus để mua OM nhưng do ông thương thảo quá lâu nên ngày 22 tháng 3 ông Dreyfus quyết định không bán đội.<ref name="RTL">{{chú thích web|url=http://www.rtl.fr/sports/article.asp?dicid=523798|title=Kachkar, It's over now|date=2007-03-29|accessdate=2007-04-26|work=RTL}}</ref>
Dòng 115:
Tháng 5 năm 2007 OM vào trận chung kết [[Cúp bóng đá Pháp]] gặp [[FC Sochaux-Montbéliard]], và lại thua trên loạt sút luân lưu sau khi hòa 2-2 trong giờ đấu chính thức. Đội kết thúc mùa 2006-2007 ở hạng thứ hai sau Lyon, giành quyền tham dự Champions League mùa sau. Trước đó đội đã thua PSG 1-2 trong trận chung kết cúp quốc gia năm 2006.
 
Tại giải Champions League, bằng trận thắng bất ngờ 1-0 trên sân [[Sân vận động Anfield|Anfield]] của [[Liverpool F.C.|Liverpool]] năm 2007 bởi bàn thắng đẹp của [[Mathieu Valbuena]], OM là đội bóng Pháp đầu tiên thắng tại sân nhà Liverpool. Nhưng đội lại thua Liverpool 0-4 tại Vélodrome qua đó Liverpool là đội bóng Anh đầu tiên thắng trận tại đây.<ref>[http://news.bbc.co.uk/sport1/hi/football/europe/7136346.stm Marseille 0-4 Liverpool] BBC Sport - 11 December 2007</ref>
 
Đầu tháng 5 năm 2009 khi OM đang dẫn đầu Ligue 1 thì huấn luyện viên [[Eric Gerets]] tuyên bố sẽ ra đi vào cuối mùa, và việc này đã gây ít nhiều xáo trộn trong đội. Ngay sau đó ban lãnh đạo Marseille tuyên bố [[Didier Deschamps]] cựu cầu thủ OM sẽ dẫn dắt đội từ mùa bóng 2009-2010.
Dòng 127:
== Sân vận động ==
 
Từ năm [[1904]] đến [[1937]], Marseille chơi tại sân [[Stade de l'Huveaune]] sức chứa 15 000 khán giả do chính đội sở hữu, khác với sân [[Sân vận động Vélodrome|Stade Vélodrome]] hiện nay do đội thuê lại. Từ năm 1937 đến nay OM thuê Stade Vélodrome làm sân nhà tuy vậy có một số thời điểm đội vẫn dùng sân l'Huveaune, như thời Marcel Leclerc để buộc chính quyền thành phố Marseille phải giảm giá cho thuê sân Vélodrome, hoặc khi sân Vélodrome sửa chữa chuẩn bị cho vòng chung kết Euro 1984 và World Cup 1998.
 
Lần sửa năm 1998 tạo thêm hai khán đài bắc (Virage Nord) và khán đài nam (Virage Sud) cùng với hai khán đài chính Jean Bouin và Ganay có tổng sức chứa 60 013 khán giả, thường xuyên đầy kín các cổ động viên trung thành của đội. Người hâm mộ hy vọng chính quyền thành phố sẽ sớm tăng sức chứa cũng như lợp mái che tất cả các khán đài.
Dòng 145:
 
;Livorno - AEK - Marseille
Giữa ba đội bóng [[A.S. Livorno Calcio|AS Livorno]] (Ý), [[AEK Athens F.C.|AEK Athens]] (Hy Lạp), và [[Olympique de Marseille|Olympique Marseille]] có quan hệ rất mật thiết. Cổ động viên OM thường trưng biểu ngữ ủng hộ hai câu lạc bộ này.
 
== Các mùa bóng của Olympique de Marseille ==
Dòng 179:
| accessdate=2009-02-18
}}</ref>.
Đội cũng là câu lạc bộ Pháp duy nhất từng vô địch [[Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu|UEFA Champions League]] với danh hiệu năm 1993.
<ref>{{chú thích web
| url=http://www.uefa.com/competitions/ucl/history/season=1992/intro.html
Dòng 187:
 
=== Danh hiệu quốc tế ===
* '''[[Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu|UEFA Champions League]]'''
** ''Vô địch (1) : '' [[1993 European Cup Final|1993]]
** ''Á quân (1) : '' [[1991 European Cup Final|1991]]
* '''[[Cúp UEFA Europa League|UEFA Cup]]'''
** ''Á quân (2) : '' [[1999 UEFA Cup Final|1999]], [[2004 UEFA Cup Final|2004]].
* '''[[UEFA Intertoto Cup]]'''
Dòng 196:
 
=== Danh hiệu trong nước ===
* '''[[LigueGiải 1vô địch bóng đá Pháp|Division 1]]/[[Giải vô địch bóng đá Pháp|Ligue 1]]'''<ref>Trước năm 2002, giải vô địch bóng đá Pháp có tên là Division 1.</ref>
** ''Vô địch (9): '' 1937, 1948, 1971, 1972, 1989, 1990, 1991, 1992, 2010
** ''Á quân (10): '' 1938, 1939, 1970, 1975, 1987, 1994, 1999, 2007, 2009, 2011
Dòng 349:
* {{flagicon|Belgium}} [[Daniel van Buyten]] (2001-2004)
 
; [[Bosna và Hercegovina|Bosnia]]
* {{flagicon|Bosnia}} [[Blaž Slišković]] (1986-1987)
 
Dòng 355:
* {{flagicon|Brazil}} [[Sonny Anderson]] (1993-1994)
* {{flagicon|Brazil}} [[Brandão]] (2009-2012)
* {{flagicon|Brazil}} [[Tập đoàn khách sạn Hilton|Hilton]] (2008-2011)
* {{flagicon|Brazil}} [[Jaguaré]] (1936-1939)
* {{flagicon|Brazil}} [[Jairzinho]] (1974-1975)
Dòng 393:
* {{flagicon|Ghana}} [[André Ayew]] (2007-2008) (2010-nay)
* {{flagicon|Ghana}} [[Jordan Ayew]] (2009-nay)
* {{flagicon|Ghana}} [[Abédi Pelé|Abedi Pelé]] (1987-1989), (1990-1993)
 
; [[Anh]]
Dòng 401:
* {{flagicon|England}} [[Chris Waddle]] (1989-1992)
 
; [[Cộng hòa Ireland|Ireland]]
* {{flagicon|Ireland}} [[Tony Cascarino]] (1994-1997)
 
Dòng 415:
* {{flagicon|Mali}} [[Seydou Keita (footballer)|Seydou Keita]] (1999-2000)
 
; [[Maroc|Ma rốc]]
* {{flagicon|Morocco}} [[Larbi Benbarek]] (1938-1939), (1953-1955)
 
Dòng 435:
* {{flagicon|Russia}} [[Dmitri Sychev]] (2002-2004)
 
; [[Sénégal|Senegal]]
* {{flagicon|Senegal}} [[Habib Beye]] (2003-2007)
* {{flagicon|Senegal}} [[Souleymane Diawara]] (2009-nay)
Dòng 449:
* {{flagicon|Spain}} [[Alfonso Pérez]] (2001-2002)
 
; [[Cộng hòa Nam Phi|Nam Phi]]
* {{flagicon|South Africa}} [[Piere Issa]] (1995-2000)
* {{flagicon|South Africa}} [[Steve Mokone]] (1958-1959)
Dòng 469:
 
==== Quả bóng vàng châu Âu ====
Cầu thủ đoạt giải [[Quả bóng vàng Châu Âu|Quả bóng vàng châu Âu]] khi đang chơi cho Olympique de Marseille:
* {{flagicon|FRA}} [[Jean-Pierre Papin]] – 1991