Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Pháo tự hành”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 3:
'''Pháo tự hành''' là một loại phương tiện mang lại sự cơ động cho [[pháo binh]]. Khái niệm này còn bao hàm cả các loại [[súng tự hành]], [[lựu pháo]] và [[pháo phản lực]]. Nó có đặc điểm là có tính cơ động cao, nhờ vào sử dụng bánh xích nên không cần các phương tiện xe kéo chở đi và có thể tự di chuyển. Pháo tự hành được dùng để làm hỏa lực hỗ trợ tầm xa trên chiến trường.
 
Vào thời gian [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]], pháo tự hành đặc biệt được quân đội các phe [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]]-[[Trục]]-[[Liên Xô]] sử dụng. Chúng còn được lắp vào pháo cho các loại [[phương tiện chiến đấu bọc thép|xe bọc thép]] và xe tăng.
 
Vào thời nay, pháo tự hành đã có nhiều chuyển biến về cả thiết kế và lắp ráp. Chúng được thêm nhiều bộ phận như: hệ thống treo hiện đại, phuộc súng,... Giống như quá khứ, các loại tăng tự hành đều có súng phụ để bảo vệ khỏi những tay bộ binh. Khác xa với sơn pháo đẩy bằng [[bộ binh]] thế kỉ 19-20, pháo tự hành hiện đại được bảo vệ bằng một lớp giáp từ tương đối-dày, nhằm bảo vệ kíp lái một cách tốt nhất.
Dòng 11:
== Những năm trước thế chiến ==
[[Image:Horse artillery rear.jpg|thumb|Một kiểu pháo ngựa kéo hạng nhẹ của quân đội Thụy Điển, năm 1850]]
Trong những năm thế kỉ 17, tiền thân của pháo tự hành chính là những loại pháo ngựa kéo, những loại pháo này sử dụng đạn pháo tròn, cây đút pháo có ngòi lửa rồi sau đó bắn. Đi đầu trong việc này chính là nước [[Nga]], họ bắt đầu sử dụng những loại pháo này trong những chiến dịch vừa và lớn với quân đội [[Thụy Điển]]. Các nước Châu Âu nhanh chóng học tập kĩ thuật quân sự mới này và bắt đầu ứng dụng vào các bãi tập quân sự. [[Friedrich II của Phổ|Friedrich Đại đế]], [[vua]] [[Phổ (quốc gia)|Phổ]] đã thành lập đơn vị [[pháo đội kỵ binh]] chuyên nghiệp đầu tiên năm 1759. Trong cuộc [[Chiến tranh Cách mạng Pháp]] năm 1790, liên quân Áo-Phổ sử dụng pháo binh đánh phá quân Pháp và tất nhiên là quân Pháp cũng sử dụng thứ vũ khí này để đánh trả. Pháo ngựa kéo được sử dụng đến tận thời [[Napoléon Bonaparte|Napoléon I]] (1804-1815). Rồi sau đó bước qua thế kỉ 20, mở đầu một thời kì mới của pháo tự hành.
 
== Thế chiến I ==
[[Image:British Gun Carrier Mark I - 60 pdr.jpg|right|thumb|Pháo tự hành Mark I]]
Pháo tự hành Mark I là thí nghiệm đầu tiên về pháo tự hành hiện đại, được đưa vào chiến trường năm 1917([[chiến tranh thế giới thứ nhất|thế chiến I]]). Nó dựa trên khung tăng, nhưng hủy phần tháp pháo trên và thay vào đó là một khẩu pháo tự hành;thêm một chiếc bệ sắt và hàn vào thân tăng. Thay cho sức ngựa đó chính là xích tăng, để di chuyển linh hoạt hơn. Pháo tự hành Mark I chính là tiền thân của các loại pháo tự hành hiện đại trong tương lai.
 
== Thế chiến II ==
Dòng 28:
{{Chi tiết|Pháo phản lực}}
[[Image:16-tube multiple launch rocket.JPG|thumb|right|250px|Pháo phản lực 16 nòng BM-12 của Đức Quốc Xã]]
Từ thế chiến II, hệ thống pháo phản lực đã xuất hiện. Nước đi đầu trong lĩnh vực này chính là [[Đức Quốc Xã]] từ những năm 1930. Tiếp theo là [[Liên Xô]], họ đã chế ra được những dàn pháo phản lực Kachiusa-một thứ vũ khí chết người. Sau Kachiusa, người [[Hoa Kỳ|Mĩ]] và [[Anh]] đã bắt đầu tham gia chế tạo loại vũ khí mới mẻ này.
 
Đến thời hiện đại, pháo phản lực đã có nhiều chuyển biến về cả thiết kế và cấu tạo. Pháo phản lực đã có hệ thống đẩy tự động (khác với hệ thống phóng của [[Kachiusa]]), hệ thống định vị tên lửa. Đặc biệt hơn, hệ thống pháo phản lực hiện đại có thể phóng được rất nhiều tên lửa mỗi lần phóng(trung bình 25-30 quả tên lửa/mỗi lần phóng) hoặc phóng được cả đầu đạn hạt nhân-hoá học-sinh học. Pháo phản lực có thể tiêu diệt được cả một cụm quân, [[xe tăng]] (thiết giáp) hoặc phá huỷ tan tành bất kì một công trình xây dựng nào. Tuy nhiên, pháo phản lực có một điểm yếu đó chính là dễ bị máy bay tấn công từ xa(nếu như không có pháo cao xạ phòng không bảo vệ).
Dòng 39:
Lựu pháo thường có nòng dài, sử dụng đạn công phá hoặc mù. Lựu pháo có hệ thống đẩy bằng cách giật cò phía sau làm cho băng truyền đẩy đạn về phía mục tiêu. Lựu pháo thời hiện đại đã có nhiều cải tiến so với thời xưa.
 
Quân đội [[Đức Quốc Xã]] và [[Liên Xô]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]] chính là hai lực lượng điển hình sử dụng lựu pháo. Hơn 80% tổn thất trong chiến tranh về cả sinh mạng, cơ sở hạ tầng,… là do lựu pháo gây ra. Tuy nhiên nó có một số khuyết điểm rất tai hại ở độ linh động và khả năng phòng vệ.
 
== Pháo tự hành thời hiện đại ==
[[Image:G5 howitzer (Impi).jpg|thumb|right|250px|Pháo tự hành 155 mm G5]]
Ngày nay, pháo tự hành đóng một vai trò quan trọng đối với quân đội các nước. Kể từ thời hiện đại, đã có hai cuộc chiến xảy ra đó chính là [[Chiến tranh Lạnh|Chiến tranh lạnh]] và [[Chiến tranh vùng Vịnh|Chiến tranh vùng vịnh]] và trong cả hai cuộc chiến trên, đều có sự tham gia của các loại pháo tự hành.
 
Pháo tự hành thời hiện đại có nhiều điểm khác biệt so với pháo tự hành trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]]. Pháo tự hành hiện đại đã có hệ thống định vị đạn, radar chống máy bay phát hiện, đầu đạn nặng và còn có thể bắn được cả đầu đạn hạt nhân nhẹ. Hệ thống định vị đạn là một trong những ưu điểm của pháo tự hành, nó có thể bám sát theo mục tiêu mà không cần phải điều chỉnh và chỉ dừng lại khi nào mục tiêu bị phá hủy.
 
Những tính năng trên giúp pháo tự hành là một trong những binh chủng không thể bị thay thế. Đặc biệt pháo tự hành thời hiện đại có thể mang được rất nhiều đạn và có nhiều nòng phụ. Một pháo tự hành hiện đại có thể mang được hơn 64 viên đạn công phá, 50 viên đạn phá tăng và một lượng nhỏ các loại đạn khí,…Hiện giờ, các nước Mỹ-Anh-Pháp-Đức đều đã có các loại pháo tự hành 6 nòng (một nòng chính và năm nòng phụ), có thể bắn đồng loạt 6 viên đạn một lúc (vì có trang bị hệ thống giảm ma sát giữa đạn và nòng đạn xuống mức tối thiểu). Điều này có nghĩa là nó có thể một lúc bắn 6 đầu đạn đến một mục tiêu mà nó được chỉ định bắn.