Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quần đảo Kuril”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n cosmetic change, replaced: |thumb| → |nhỏ|, |right| → |phải|, [[Image: → [[Hình: (2) using AWB
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
[[Hình:EtorofuPicnic1933.jpg|250px|nhỏ|phải|Những người Nhật định cư trên đảo [[Iturup]] (lúc đó gọi là đảo Etorofu) trong một chuyến dã ngoại ven bờ sông năm 1933]]
'''Quần đảo Kuril''' theo cách gọi của [[Nga]] ([[tiếng Nga]]: Курильские острова [kuˈrʲilskiɪe əstrʌˈva], Kuril'skie ostrova), hay '''quần đảo Chishima''' theo cách gọi của [[Nhật Bản]] ([[tiếng Nhật]]: 千島列島; [[phiên âm Hán-Việt|âm Hán Việt]]: Thiên Đảo liệt đảo) nay thuộc tỉnh Sakhalin của Nga, là một quần đảo núi lửa trải dài khoảng 1.300 km về phía đông bắc từ [[Hokkaidō]], [[Nhật Bản]] tới [[Bán đảo Kamchatka|Kamchatka]] của [[Nga]], chia tách [[biển Okhotsk]] từ phía bắc [[Thái Bình Dương]]. Quần đảo này có khoảng 56 đảo và nhiều đảo đá nhỏ khác.
 
Sau [[đế quốc Nhật Bản|phát xít Nhật]] bại trận vào năm 1945, toàn bộ quần đảo Kuril nằm dưới quyền kiểm soát của [[Liên Xô]] và nay là của [[Nga]]. Tất cả cư dân trên đảo sau đó đã được đưa sang định cư ở vùng Trung Á thuộc Liên Xô. Tuy nhiên đến nay [[Nhật Bản|Nhật]] vẫn khẳng định chủ quyền của mình ở [[Tranh chấp Quần đảo Kuril|4 đảo cực nam]] của quần đảo này.
 
== Tên gọi ==
[[Hình:Demis-kurils-russian names.png|nhỏ|400px|Phân định quần đảo Kuril và lãnh thổ phía Bắc theo thời gian]]
[[Tiếng Nhật]] gọi Quần đảo Kuril là quần đảo Chishima ([[Kanji]]: {{lang|ja|千島列島}} / [[Latinh hóa Hepburn|Hepburn Romaji]]: {{lang|ja-Latn|''Chishima Rettō''}} {{IPA|[tɕiɕima ɺetːoː]}}, nghĩa đen là ''chuỗi đảo nghìn đảo''), hoặc quần đảo Kuriru ([[Kanji]]: {{lang|ja|クリル列島}} / [[Latinh hóa Hepburn|Hepburn Romaji]]: {{lang|ja-Latn|''Kuriru Rettō''}} {{IPA|[kɯɺiɺɯ ɺetːoː]}}, nghĩa đen là ''chuỗi đảo Kuril''). Tên gọi ''Kuril'' có nguồn gốc từ [[tên địa phương]] của thổ dân [[người Ainu|Ainu]] là một nhóm sắc tộc định cư ở phía Bắc Nhật Bản, chủ yếu ở đảo [[Hokkaidō|Hokkaido]], những [[dân bản xứ|cư dân gốc]] trên các đảo: "kur", nghĩa là người. Những địa danh này có liên hệ với những hải đảo khác trong vùng nơi người Ainu từng sinh sống, chẳng hạn như họ gọi [[Sakhalin]] là ''Kuyi'' hay ''Kuye''; và [[Hokkaidō]] là ''Kai''.
 
== Lịch sử ==
Sử liệu của Nhật Bản đã nhắc tới vùng đất này từ [[thời kỳ Edo|thời Edo]] (1590) trong các văn bản của [[Toyotomi Hideyoshi]] ([[Toyotomi Hideyoshi|Phong Thần Tú Cát]]).
Bốn đảo được sáp nhập vào Liên Xô ngày 18-8-1945, tức ba ngày trước khi Nhật Bản tuyên bố đầu hàng. Etorofu được phía Nga gọi là Iturup, còn Kunashiri được gọi là Kunashir. Khi đó, Liên Xô đã di dời 17.000 [[người Nhật]] trên quần đảo này sang [[Kazakhstan]] và [[Uzbekistan]], đến năm 1946 thì tuyên bố bốn hòn đảo thuộc [[Liên Xô]].
 
Năm 1956, khi nước Nhật và Liên Xô thiết lập quan hệ ngoại giao, nhà lãnh đạo Liên Xô [[Nikita Sergeyevich Khrushchyov|Nikita Khrushchev]] đã đề nghị trả lại hai đảo Shikotan và Habomai cho Nhật. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán đã không đi đến đâu. Năm 1991, tổng thống Nga [[Boris Nikolayevich Yeltsin|Boris Yeltsin]] từng đề cập lại vấn đề này nhưng bị dư luận Nga phản đối quyết liệt.
 
== Các đảo ==
[[Hình:Kunashiri Shrine.JPG|nhỏ|Cổng đền thờ [[Thần đạo]] trên đảo Kunashiri]]
[[Tập tin:Atlasov island.jpg|nhỏ|[[Atlasov (đảo)|Đảo Atlasov]] — đảo chính xa thứ hai về phía bắc trong quần đảo Kuril, nhìn từ vũ trụ.]]
[[Tập tin:Signalny Rock.jpg|nhỏ|Đảo đá Signalny, nhìn từ mũi Nosappu, Nhật Bản]]
 
Dòng 26:
;Bắc Kuril (Kita-chishima / 北千島; âm Hán Việt: Bắc Thiên Đảo)'''
* [[Shumshu]] (Shumushu / 占守島; Chiêm Thủ)
* [[Đảo Atlasov (đảo)|Atlasov]] (Araido / 阿頼度島)
* [[Paramushir]] (Paramushiru, Horomushiro / 幌筵島; Hoảng Diên)
* [[Đảo Antsiferov|Antsiferov]] (Shirinki / 志林規島; Chí Lâm Quy)
Dòng 49:
* [[Kunashir]] (Kunashiri / 国後島; Quốc Hậu)
* [[Shikotan]] (色丹島; Sắc Đan)
* Các đảo đá [[Quần đảo Habomai|Khabomai]] (Habomai Shotō / 歯舞諸島)
** Moneron (Kaiba / 海馬島; Hải Mã)
** Polonskogo (Taraku / 多楽島; Đa Lạc)