Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Hữu Trang”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Adia (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Adia (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Trần Hữu Trang''' ([[1906]] - [[1 tháng 10]] năm [[1966]]) là một trong những soạn giả lớn của nghệ thuật cải lương. Ông đã ghi dấu ấn trên sân khấu cải lương với những sáng tác nổi tiếng đã như ''[[Tô Ánh Nguyệt]], [[Lan và Điệp]], [[Đời Lựu]]''...
 
Trần Hữu Trang đã được truy tặng [[Giải thưởng Hồ Chí Minh]] về văn học nghệ thuật đợt 1 ([[1996]]).
Dòng 6:
Ông sinh năm [[1906]] tại xã [[Phú Kiết]], huyện [[Chợ Gạo]], tỉnh [[Mỹ Tho]] (nay thuộc tỉnh [[Tiền Giang]]) trong một gia đình nông dân. Ngay từ nhỏ ông đã say mê đàn hát. Lúc đầu ông đi theo các gánh hát làm thư kí chép vở, sau đó được [[Mười Giảng]] (tức [[Đặng Công Danh]]) hướng dẫn dạy dỗ. Ông cho ra mắt kịch bản đầu tay ''Lửa đỏ lòng son'' vào năm [[1928]].
 
Những năm [[1930]], ông nổi tiếng với hàng loạt sáng tác như ''Tô Ánh Nguyệt'' ([[1934]]), ''Lan và Điệp'' ([[1936]]), nhất là'' Đời Lựu'' ([[1937]]). Ông cộng tác với các gánh hát Trần Đắc, Năm Phỉ, Phụng Hảo, Năm Châu. Những sáng tác sau đó ''Tìm hạnh phúc, Mộng hoa vương, Chị chồng tôi, Tình lụy''... hay ''Khi người điên biết yêu'' - cộng tác với [[Năm Châu]], [[Lê Hoài Nở]] - tiếp tục gây tiếng vang lớn.
 
Sau [[Cách mạng tháng 8]], ông hăng hái tham gia kháng chiến, làm Chủ tịch ủy ban kháng chiến xã Phú Kiết. Năm [[1947]], ông trở lại hoạt động tại [[Sài Gòn]]. Năm [[1954]], ông lại hoạt động trong phong trào hoà bình Sài Gòn - [[Chợ Lớn]]. Năm [[1960]], ông tham gia Uỷ ban Trung ương [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam]] và được bầu làm Chủ tich Hội Văn nghệ Giải phóng. Ông mất vào ngày 1 tháng 10 năm 1966, tại suối Cây vùng [[Sa Mát]] trong một trận bom oanh tạc của Mỹ.
Dòng 13:
 
== Sự nghiệp sáng tác ==
Ông khởi đầu bằng kịch bản ''Lửa đỏ lòng son'' năm [[1928]], tiếp theo đó là vở ''Tâm hồn nghệ sĩ.'' Những sáng tác này tuy còn nhiều non nớt nhưng đã có sự mới mẻ về hình thức lẫn nội dung, đặc biệt đưa cuộc sống đương thời vào trong sân khấu cải lương.
 
Thời kì thập niên [[1930]], tài năng nghệ thuật của ông đã đạt được nhiều thành tựu. Những vở như ''Đời cô Lựu'', ''Tô Ánh Nguyệt'' hay ''Lan và Điệp'' không chỉ thành công ăn khách mà còn là những sáng tác xuất sắc của sân khấu cải lương trước Cách mạng. Những sáng tác của Trần Hữu Trang không thiên về tình yêu đôi lứa uớt át hay cảm hứng lãng mạng mà xoáy sâu trực diện vào hiện thực xã hội. Những sáng tác này đã phơi bày số phận những người dân bất hạnh hay đề cập đến những bi kịch của tình yêu và hôn nhân trong hoàn cảnh xã hội đương thời, do đó nó "''thấm đượm giá trị tố cáo, vạch trần những tệ nạn và sự thối nát của xã hội thuộc địa, lên tiếng bênh vực những khát vọng giải phóng con người thoát khỏi mọi dây trói của lễ giáo, hủ tục, cũng như những bất công ngang trái''" [http://www.danangpt.com.vn/home/vanhoa/detail.php?id=110&a=78&k=104]. Với gần 30 kịch bản mang nội dung tư tưởng tiến bộ và giá trị nhân văn sâu sắc, Trần Hữu Trang đã đưa sân khấu cải lương Nam Bộ đi những bước dài về nội dung và hình thức.
 
Sau Cách mạng tháng 8, do hoàn cảnh công việc nên ông không sáng tác nhiều. Năm [[1946]], ông cho ra vở ''Hậu chiến trường'' và đến tận 20 năm sau, ông mới bắt tay viết kịch bản mới về người chiến sĩ cách mạng [[Nguyễn Văn Trỗi]]. Thế nhưng kịch bản đã không thể hoàn thành được.
 
== Tác phẩm chính ==