Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Suy thoái kinh tế”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
FOM (thảo luận | đóng góp)
Revert to revision 590593 dated 2007-05-30 08:40:00 by Bình Giang using popups
Dòng 5:
Các nền kinh tế theo định hướng thị trường có đặc điểm là tăng giảm theo [[chu kỳ kinh tế]], nhưng sự suy giảm thực tế (suy giảm các hoạt động kinh tế) không thường xảy ra. Nhiều tranh luận về việc chính phủ có nên can thiệp để điều hòa kinh tế ([[Kinh tế học Keynes|học thuyết kinh tế vĩ mô của Keynes]]), khuyếch đại chu kỳ kinh tế (lý thuyết chu kỳ kinh tế thực), hoặc thậm chí là tạo ra [[chu kỳ kinh tế]] ([[chủ nghĩa tiền tệ]]).
 
==Nguyên nhân của suy thoái kinh tế==
excessively stimulative monetary policy
 
Những nguyên nhân đích thực của suy thoái kinh tế là đối tượng tranh luận sôi nổi giữa các nhà lý thuyết và những người làm chính sách mặc dù đa số thống nhất rằng các kỳ suy thoái kinh tế gây ra bởi sự kết hợp của các yếu tố bên trong (nội sinh) theo chu kỳ và các cú sốc từ bên ngoài (ngoại sinh). Ví dụ, những nhà kinh tế học [[Kinh tế học Keynes|chủ nghĩa Keynes]] và những lý thuyết gia theo lý thuyết chu kỳ kinh tế thực sẽ bất đồng về nguyên nhân của chu kỳ kinh tế, nhưng sẽ thống nhất cao rằng các yếu tố ngoại sinh như giá dầu, thời tiết, hay chiến tranh có thể tự chúng gây ra suy thoái kinh tế nhất thời, hoặc ngược lại, tăng trưởng kinh tế ngắn hạn. Trường phái [[kinh tế học Áo]] giữ quan điểm rằng lạm phát bởi cung tiền tệ gây ra suy thoái kinh tế ngày nay và các thời kỳ suy thoái đó là động lực tích cực theo nghĩa chúng là cơ chế tự nhiên của thị trường điều chỉnh lại những nguồn lực bị sử dụng không hiệu quả trong giai đoạn “tăng trưởng” hoặc lạm phát. Phần lớn học giả theo [[chủ nghĩa tiền tệ|thuyết tiền tệ]] tin rằng những thay đổi triệt để về cơ cấu kinh tế không phải là nguyên nhân chủ yếu; nguyên nhân của các thời kỳ suy thoái ở Mỹ là bởi quản lý tiền tệ yếu kém.
 
==Đại khủng hoảng==
Hàng 12 ⟶ 14:
Trước thời gian [[Đại khủng hoảng]], một làn sóng đầu tư tràn lan trên [[thị trường chứng khoán]], làm giá [[chứng khoán]] cao giả tạo. Quá trình này còn được đẩy mạnh bằng việc chứng khoán quay lại thế chấp cho những khoản vay để tiếp tục mua chứng khoán. Khi nền kinh tế có những dấu hiệu chững lại và giá chứng khoán giảm xuống, hiệu ứng dây chuyền xảy ra. Khi các khoản đầu tư mất giá trị danh nghĩa và các khoảng vay trở thành nợ xấu, rất nhiều tổ chức tài chính sụp đổ, gây ra khủng hoảng tiền tệ.
 
Phân tích này bị đả kích bởi các học giả theo [[chủ nghĩa tiền tệ]] như [[Milton Friedman]], người viết rằng Đại khủng hoảng chỉ là một cơn suy thoái nếu [[Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ]] không thắt chặt [[cung ứng tiền tệ|cung tiền tệ]] khi mọi người đổ đến các [[ngân hàng]] để rút tiền. Các khoản đầu tư trở nên không hấp dẫn do hậu quả của thiểu phát, tăng lãi suất thực và giảm thu nhập cá nhân và doanh nghiệp. Hậu quả là rút tiền khỏi [[ngân hàng]] làm một số ngân hàng đổ vỡ vì không còn dự trữ trong khi các khoản nợ chưa thu hồi được. Thực tế này khiến các nhà đầu tư càng sợ hãi và tiếp tục rút tiền ra khỏi ngân hàng. Từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, nguồn cung tiền tệ giảm đi một phần ba buộc sản lượng giảm theo khi giá cả được điều chỉnh,
Ph
 
Khi [[tổng thống]] [[Franklin D. Roosevelt]] nhậm chức năm 1933, ông bắt đầu chương trình cải cách tích cực ''“New Deal”'' với 3 mục tiêu (1) khẩn trương cứu tế người thất nghiệp, (2) khôi phục kinh tế trở lại tình trạng bình thường, và (3) cải cách hệ thống tài chính để [[Đại khủng hoảng]] không bao giờ xảy ra nữa. Roosevelt đưa [[Tổng sản phẩm quốc gia]] (GNP) gia tăng trở lại, đạt mức 11% hàng năm trong giai đoạn 1933-1936.