Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tổ Đại Thọ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 34:
==10 năm giữ Cẩm Châu==
===Ky mi của nhà Minh===
Đại Thọ mới vào Cẩm Châu, nói dối rằng đột vây mà ra, Liêu Đông tuần phủ [[Khâu Hòa Gia]] biết ông đã hàng Kim, ngầm tâu lên triều đình, Sùng Trinh đế muốn dùng Đại Thọ làm ky mi, nên không cho hỏi đến; chỉ có bọn tướng Mông Cổ là [[Tang Cát Nhĩ Tắc]] cứu viện bất lực, nên lệnh cho ông trị tội. Bọn Tang Cát Nhĩ Tắc muốn bắt Đại Thọ đi hàng Kim, ông cùng họ ăn thề rồi bỏ qua cho nhau. Sùng Trinh đế triệu Đại Thọ về triều, sứ giả đi lại đôi ba lần, ông đều từ chối.
 
Hoàng Thái Cực từ Đại Lăng Hà trở về, cướp [[Tuyên Phủ]], hạ [[Lữ Thuận]]. Được 2 năm (1634), sai [[A Sơn]], [[Đàm Thái]], [[Đồ Nhĩ Cách]] trước sau đi Cẩm Châu trách mắng. Năm sau nữa (1635), sai Bối lặc [[Đa Đạc]] soái quân đánh Cẩm Châu, Đa Đạc lệnh cho bọn A Sơn, Thạch Đình Trụ, [[Đồ Lại]], [[Ngô Bái]], [[Lang Cầu]], [[Sát Cáp Lạt]] đưa 400 người làm tiền khu. Đại Thọ lệnh cho phó tướng [[Lưu Ứng Tuyển]], [[Mục Lộc]], [[Ngô Tam Quế]], tham tướng Tang Cát Nhĩ Tắc, [[Trương Quốc Trung]], [[Vương Mệnh Thế]], [[Chi Minh Hiển]] đưa 2700 quân ra chống lại, phó tướng giữ thành [[Tùng Sơn]] là bọn [[Lưu Thành Công]], [[Triệu Quốc Chí]] đưa 800 người đến hội. Quân Minh gặp bọn A Sơn ở phía tây Đại Lăng Hà, Đa Đạc dẫn hậu quân từ trên núi đánh xuống, bụi mù bốc cao, bọn Lưu Ứng Tuyển tan chạy. Quân Kim diệt 500 người, bắt sống bọn du kích [[Tào Đắc Công]], thu được hơn 200 con ngựa, giáp trụ không đếm xuể. Đa Đạc lui quân.
 
===Giằng co với nhà Thanh===
Hoàng Thái Cực đổi niên hiệu là Sùng Đức (1636), phong quan chức cho các con cháu của Đại Thọ và bọn hàng tướng Minh, sai sứ ban sắc đòi ông trình bày sách lược tiến binh, Đại Thọ không trả lời.
 
Tháng 10 năm Sùng Trình thứ 11 (1638), Hoàng Thái Cực tự đưa quân đánh nhà Minh, soái Trịnh thân vương [[Tể Nhĩ Cáp Lãng]], Dự thân vương [[Đa Đạc]] ra Ninh Viễn, Cẩm Châu đại đạo; Duệ thân vương [[Đa Nhĩ Cổn]] nắm cánh trái, từ Thanh Sơn Quan mà vào; Bối lặc [[Nhạc Thác]] nắm cánh phải, từ Tường Tử Lĩnh mà vào. Đại Thọ đang đóng đồn ở Trung Hậu Sở <ref>Gọi đầy đủ là Trung Hậu Thiên Hộ Sở, được thiết lập vào năm [[Tuyên Đức]] thứ 3 (1428) nhà Minh; nay là Tuy Trung, Liêu Ninh</ref>, đưa quân tập kích Đa Đạc, quân đội Thổ Mặc Đặc <ref>'''Thổ Mặc Đặc''' (土默特, phiên âm La Tinh: Tümed hay Tumad) là một bộ lạc Mông Cổ, ngày nay sanh hoạt chủ yếu ở [[Hô Hòa Hạo Đặc Kökeqota]], một phần ở [[Hô Luân Bối Nhĩ Hölün buyir]]</ref> chạy trước, Đa Đạc cũng thua chạy. Hôm sau, Đa Đạc hợp binh với Tể Nhĩ Cáp Lãng ra đánh, Đại Thọ thu binh không quay lại giao chiến. Hoàng Thái Cực tự soái quân đến Trung Hậu Sở, trước sau 2 lần sai sứ yêu cầu Đại Thọ gặp mặt, ông rốt cục không ra. Bọn Thạch Đình Trụ, [[Mã Quang Viễn]], [[Khổng Hữu Đức]] đánh hạ các đài bảo lân cận, Hoàng Thái Cực mệnh cho lui quân, tuyên bố đại thắng.
 
Tháng 2 năm thứ 12 (1639), Hoàng Thái Cực cất quân phạt Minh, lấy Vũ Anh quận vương [[A Tể Cách]] làm tiền phong, tự mình đốc quân vây Tùng Sơn, chia quân đánh [[Liên Sơn]], [[Tháp Sơn]], [[Hạnh Sơn]]. Sùng Trinh đế triệu Đại Thọ về cứu, ông vừa mới lên đường, quân Thanh đến, nên lui về giữ Ninh Viễn. Khi ấy Trạch Viễn giữ Hạnh Sơn, Đại Thọ sai 3 viên bô tướng, 900 quân theo đường thủy đi cứu, nửa đêm vào thành. Quân Cát Bố Thập Hiền <ref>'''Cát Bố Thập Hiền Siêu Cáp''' là đội tiền phong của '''Ba Nha Lạt Siêu Cáp'''. '''Siêu Cáp''' nghĩa là quân hay binh, Ba Nha Lạt là tinh binh được tuyển chọn từ con em quý tộc [[Nữ Chân Kiến Châu]]</ref> đuổi theo phía sau, bắt kịp, cướp được 1 chiếc thuyền, giết 50 người. Hoàng Thái Cực sai sứ đến Cẩm Châu dụ vợ ông, dạy bà đem lẽ lợi hại khuyên Đại Thọ về hàng. Ông tuyển quân Mông, Hán đều được 300 người, sai [[Tổ Khắc Dũng]] cùng bọn phó tướng [[Dương Chấn]], [[Từ Xương Vĩnh]] ra giữ bên ngoài Cẩm Châu; đến cửa sông Ô Hân, giao chiến với 160 lính thú Mãn, Mông do [[A Nhĩ Tát Lan]] soái lãnh. Chấn bị bắt, 84 người bị giết, 150 con ngựa bị lấy mất. Khắc Dũng dựa vào núi lập trại, Hoàng Thái Cực tự đốc quân Ba Nha Lạt phá trại, Xương Vĩnh bị chém, Khắc Dũng bị bắt, 311 người bị giết, 411 con ngựa bị lấy mất. Quân Thanh đánh Tùng Sơn, không hạ được, gặp lúc 2 cánh trái, phải trở lại, Hoàng Thái Cực mệnh cho bãi binh lui về Thịnh Kinh. Đại Thọ lại vào Cẩm Châu. Năm ấy quân Thanh mấy lần vào cướp Cẩm Châu, Ninh Viễn, Tùng Sơn, Hạnh Sơn, đều không thành công, bắt được người, của thì lập tức lui về.
 
===Đầu hàng lần thứ 2===
Tháng 3 năm thứ 13 (1640), nhà Thanh mệnh cho Trịnh thân vương Tể Nhĩ Cáp Lãng, Bối lặc Đa Đạc soái quân ra đóng đồn làm ruộng ở [[Nghĩa Châu]]. Tháng 5, Hoàng Thái Cực đi Nghĩa Châu thị sát, đầu mục Mông Cổ là bọn Tô Ban Đại ở phía tây thành Hạn Sơn sai sứ xin hàng, Hoàng Thái Cực mệnh cho bọn Tể Nhĩ Cáp Lãng soái 1500 quân Ba Nha Lạt đi đón. Đại Thọ dò biết quân Thanh ít người, lệnh cho Du kích Đái Minh cùng Tùng Sơn tổng binh Ngô Tam Quế, Hạnh Sơn tổng binh Lưu Chu Trí hợp 7000 quân tập kích, Tể Nhĩ Cáp Lãng lui chạy để nhử, rồi quay lại đánh cho quân Minh đại bại. Hoàng Thái Cực tự đi xem thành Cẩm Châu, đánh Ngũ Lý Đài ở phía đông thành, Lượng Mã Đài ở phía bắc thành, đều hạ được, cắt hết lúa rồi trở về. Hoàng Thái Cực mệnh cho bọn Tể Nhĩ Cáp Lãng, Đa Nhĩ Cổn luân phiên đánh Cẩm Châu.
 
Tháng 3 năm thứ 14 (1641), Tể Nhĩ Cáp Lãng mệnh cho các cánh quân lập doanh trại quanh thành. Đại Thọ lệnh cho lính Mông Cổ giữ tường thấp, bọn Bối lặc Nặc Mộc Tề sai sứ xin hàng, mở cửa đông của thành ngoài (nguyên văn: quách) đón quân Thanh. Ông nghe tin, đưa quân ra khỏi thành trong (nguyên văn: tử thành), giao chiến với quân Mông Cổ. Quân Thành áp sát thành ngoài, được quân Mông Cổ thả dây thừng, vịn lấy mà trèo lên, thổi tù và tấn công. Đại Thọ lui về giữ thành trong, quân Thành vượt qua thành ngoài, bắt được hơn 10 viên bì tướng cùng 5367 nam nữ. Viện quân Minh từ Hạnh Sơn đến, Tể Nhĩ Cáp Lãng sắp đặt mai phục đánh cho đại bại, bị giết 170, bị bắt 4374 người, bị lấy mất 160 con ngựa, 76 bộ giáp.
 
Tháng 5, [[Hồng Thừa Trù]] đốc quân đến cứu. Tháng 6, Đa Nhĩ Cổn đổi phiên. Hoàng Thái Cực sai học sĩ La Thạc đưa thư của bọn [[Tổ Trạch Nhuận]] chiêu hàng Đại Thọ. Tháng 7, Hoàng Thái Cực tự đem quân phá quân Minh, bắt Thừa Trù. Em Đại Thọ là tổng binh Đại Nhạc, du kích Đại Danh, Đại Thành ở trong quân Thừa Trù, cũng bị bắt. Hoàng Thái Cực thả Đại Thành vào Cẩm Châu. Ông sai sứ đến chỗ quân Thanh, nói nếu gặp được Đại Nhạc, sẽ hàng; có lệnh cho gặp, Đại Thọ lại sai sứ xin hẹn thề. Tể Nhĩ Cáp Lãng giận nói: “Thành“''Thành sớm tối sẽ hạ được, còn hẹn thề làm gì?''” ra dáng muốn tấn công. Ông sai Trạch Viễn cùng Trung quân Cát Huân đến chỗ quân Thanh nhận tội. Hôm sau, Đại Thọ soái quan tướng ra hàng, ngay hôm ấy các Cố sơn (tức là Kỳ) Ngạch chân (tức là Đô thống hay Kỳ chủ) đưa quân vào thành. Đó là ngày 8 tháng 3 năm Sùng Đức thứ 7 (1642) nhà Thanh.
 
Hoàng Thái Cực nghe tin, sai Tể Nhĩ Cáp Lãng, Đa Nhĩ Cổn úy dụ Đại Thọ, rồi lệnh cho chiêu hàng 2 thành Hạnh Sơn, Tháp Sơn; Tể Nhĩ Cáp Lãng, Đa Nhĩ Cổn đưa quân đến đóng ở đó.