Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thái Phiên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
cho xin nguồn
wiki hóa
Dòng 1:
{{otheruses}}
{{thiếu nguồn gốc}}
'''Thái Phiên''' ([[1882]] - [[1916]]) là một nhà hoạt động cách mạng, người đã cùng với vua [[Duy Tân]] chống [[Thực dân Pháp|Pháp]]. Ông bị Pháp bắt và xử chém vào ngày [[17 tháng 5]] năm [[1916]].
{{wikify}}
'''Thái Phiên''' (1882 - 1916) quê tại làng Nghi An, xã Hòa Phát, [[Hòa Vang]] tỉnh [[Quảng Nam]]. Năm 1904, tham gia phong trào [[Ðông Du]], Duy Tân cùng [[Phan Bội Châu]]. Từ năm 1913, ông là một trong những người lãnh đạo Việt Nam Quang Phục Hội miền Nam Trung Kỳ. . Sau khi Kinh Ðô Huế thất thủ (1885), đi tu tại chùa Cổ Lâm (miền núi Quảng Nam). Năm 1892 ông vào Bình Ðịnh làm nghề dạy học và hoạt động cách mạng, tham gia khởi nghĩa chống Pháp, đề xướng thuyết Trung phiên dịch , tham gia đấu tranh chống thuế ở Trung Kỳ 1908. Ðầu năm 1916, ông và Trần Cao Vân đã gặp Vua Duy Tân thống nhất kế hoạch khởi nghĩa lật đổ Pháp. Kế hoạch bị tiết lộ, cuộc khởi nghĩa không thành, Thái Phiên, [[Trần Cao Vân]] và Vua [[Duy Tân]] bị [[Pháp]] bắt trên đường lên căn cứ vào rạng sáng ngày 4/5/1916. Ngày 17/5/1916, cùng với hai chiến hữu của mình là Nguyễn Quang Siêu, Tôn Thất Ðề và một số người khác, ông bị thực dân Pháp và Nam triều xử chém tại cống Chém (An Hòa, Thành phố [[Huế]]), chôn lấp cùng một hố với Trần Cao Vân.
 
==Tiểu sử==
Tháng 6 năm 1925, bà Trương Thị Dương, người cùng họat động trong [[Việt Nam Quang Phục Hội]], nhóm của ông, đã bí mật đưa hài cốt hai ông từ An Hòa về chôn gần tháp Hòa thượng Kiết Mao thuộc xã Thủy Xuân. Sau đó 11 ngày việc cải táng có nguy cơ bị bại lộ, bà Dương lại từ Quảng Trị vào, rồi đêm đến bí mật đào hài cốt hai ông đem chôn chung một mộ tại đồi thông Từ Hiếu (trên đường lên lăng Tự Ðức).
'''Thái Phiên''' (1882 - 1916) quê tại làng Nghi An, xã Hòa Phát, [[Hòa Vang]] tỉnh [[Quảng Nam]]. Năm [[1904]], ông tham gia phong trào [[Ðông Du]], [[phong trào Duy Tân|Duy Tân]] cùng [[Phan Bội Châu]]. Từ năm 1913, ông là một trong những người lãnh đạo [[Việt Nam Quang Phục Hội]] miền Nam Trung Kỳ. . Sau khi Kinh Ðô [[Huế]] thất thủ ([[1885]]), ông đi tu tại chùa Cổ Lâm (miền núi Quảng Nam). Năm [[1892]] ông vào [[Bình Ðịnh]] làm nghề dạy học và hoạt động cách mạng, tham gia khởi nghĩa chống Pháp, đề xướng thuyết Trung phiên dịch , tham gia đấu tranh chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908. Ðầu năm 1916, ông và [[Trần Cao Vân]] đã gặp Vua [[Duy Tân]] thống nhất kế hoạch khởi nghĩa lật đổ Pháp. Kế hoạch bị tiết lộ, cuộc khởi nghĩa không thành, Thái Phiên, [[Trần Cao Vân]] và Vua [[Duy Tân]] bị [[Pháp]] bắt trên đường lên căn cứ vào rạng sáng ngày [[4/ tháng 5/]] năm [[1916]]. Ngày [[17/ tháng 5/]] năm [[1916]], cùng với hai chiến hữu của mình là Nguyễn Quang Siêu, Tôn Thất Ðề và một số người khác, ông bị thực dân Pháp và Nam triều xử chém tại cống Chém (An Hòa, Thành phố [[Huế]]), chôn lấp cùng một hố với Trần Cao Vân.
 
Tháng 6 năm 1925, bà Trương Thị Dương, người cùng họathoạt động trong [[Việt Nam Quang Phục Hội]], nhóm của ông, đã bí mật đưa hài cốt hai ông từ An Hòa về chôn gần tháp Hòa thượng Kiết Mao thuộc xã Thủy Xuân. Sau đó 11 ngày việc cải táng có nguy cơ bị bại lộ, bà Dương lại từ Quảng Trị vào, rồi đêm đến bí mật đào hài cốt hai ông đem chôn chung một mộ tại đồi thông Từ Hiếu (trên đường lên lăng Tự Ðức).
{{sơ khai}}
{{Thời gian sống|sinh=1882|mất=1916}}