Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Xanana Gusmão”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Liên kết ngoài: clean up using AWB
n Thêm thể loại, replaced: {{Cite book → {{chú thích sách, {{cite web → {{chú thích web using AWB
Dòng 44:
 
==Cuộc đời và sự nghiệp ban đầu==
Gusmão có phụ mẫu là giáo viên người [[Mestizo|''mestiço'']] (hợp chủng Bồ Đào Nha-Timor)<ref>{{Citechú bookthích sách|title=First Globalization: The Eurasian Exchange, 1500–1800|url=http://books.google.co.uk/books?id=4gQV2V01Y6UC&dq=Geoffrey+C.+Gunn+(2003).+First+Globalization:+The+Eurasian+Exchange,+1500-1800.&printsec=frontcover#v=onepage&q=&f=false|author=Geoffrey C. Gunn|publisher=Rowman & Littlefield|pages=282|year=2003|isbn=0-7425-2661-5}}</ref> tại [[Manatuto]] thuộc [[Timor thuộc Bồ Đào Nha]], và theo học tại một trường trung học [[Dòng Tên]] ở ngay bên ngoài [[Dili]]. Sau khi phải rời bỏ trường trung học vì lý do tài chính ở tuổi 15, ông đã làm các công việc phổ thông khác nhau, trong khi tiếp tục việc học tập tại lớp học ban đêm. Năm 1965, vào tuổi 19, ông gặp Emilia Batista, người sau này sẽ trở thành phu nhân của ông. Biệt danh "Xanana" của ông bắt nguồn từ tên ban nhạc [[rock and roll]] [[Sha Na Na]] của Hoa Kỳ, và ban nhạc này lại lấy tên theo phần lời trữ tình từ một bài hát [[doo-wop]] năm 1957 của nhóm nhạc [[the Silhouette]].
 
Năm 1966, Gusmão có được một vị trí trong ngành dân chính, điều này cho phép ông có thể tiếp tục việc học tập. Tuy nhiên, việc này đã bị gián đoạn vào năm 1968 khi Gusmão phải thực hiện [[nghĩa vụ quân sự]] trong [[Lục quân Bồ Đào Nha]]. Ông phục vụ ba năm trong quân ngũ, được thăng cấp hạ sĩ. Trong thời gian này, ông kết hôn với Emilia Batista, rồi cùng bà có một người con trai tên Eugenio, và một người con gái tên Zenilda. Sau này, ông đã ly dị Emilia, và vào năm 2000, ông đã kết hôn với một [[người Úc]] là [[Kirsty Sword Gusmão|Kirsty Sword]], và có ba người con trai với bà: Alexandre, Kay Olok và Daniel. Năm 1971, Gusmão hoàn thành nghĩa vụ quân sự, con trai ông ra đời, và ông bắt đầu tham gia một tổ chức [[dân tộc chủ nghĩa]] do [[José Ramos-Horta]] đứng đầu. Trong ba thập niên sau đó, ông đã tham gia vào các hoạt động kháng nghị hòa bình nhằm vào chế độ thuộc địa.
Dòng 63:
Ngày 30 tháng 8 năm 1999, một cuộc [[Trưng cầu dân ý quyền tự trị đặc biệt Đông Timor|trưng cầu dân ý]] đã được tổ chức tại Đông Timor và một đa số áp đảo đã bỏ phiếu muốn độc lập. Do kết quả từ những áp lực ngoại giao của Liên Hiệp Quốc, sự xúc tiến từ phía Bồ Đào Nha từ cuối thập niên 1970 và của Liên Hiệp Quốc cùng [[Úc]] trong thập niên 1990, một lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế do Liên Hiệp Quốc phê chuẩn và do Úc đứng đầu (INTERFET) đã tiến vào Đông East Timor, và Gusmão cuối cùng đã được phóng thích. Khi trở về quê hương Đông Timor, ông bắt đầu một chiến dịch hòa giải và tái thiết.
 
Gusmão được bổ nhiệm vào một vị trí cấp cao trong chính quyền Liên Hiệp Quốc tại Đông Timor cho đến ngày 20 tháng 5 năm 2002. Trong thời gian này, ông tiếp tục vận động cho thống nhất và hòa bình trong nội bộ Đông Timor, và thường được xem là một nhà lãnh đạo ''trên thực tế'' của quốc gia mới xuất hiện này. Các cuộc bầu cử được tổ chức vào cuối năm 2001 và Gusmão, nhận được sự tán thành của 9 đảng phái song không bao gồm FRETILIN, đã tranh cử với vị thế độc lập và thắng cử chức lãnh đạo. Do vậy, ông trở thành Tổng thống đầu tiên của Đông Timor khi quốc gia này chính thức độc lập vào ngày 20 tháng 5 năm 2002. Gusmão đã cho xuất bản một cuốn tự truyện với các tác phẩm được tuyển chọn có tựa đề ''To Resist Is to Win''. Ông là người kể chuyện chính của bộ phim ''A Hero's Journey''/''Where the Sun Rises'',<ref>{{citechú thích web |url=http://www.luxlucis.sg/index.swf |title=A Hero's Journey }}</ref> một bộ phim tài liệu năm 2006 về ông và Đông Timor.
 
==Đông Timor độc lập==