Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sĩ Ưởng”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Bot: Di chuyển 2 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q4976695 Addbot |
n Robot: Sửa đổi hướng |
||
Dòng 2:
| tên = Sĩ Ưởng/Phạm Hiến tử
| tên gốc = 士鞅/范献子
| tước vị = Đại phu [[tấn (nước)|nước Tấn]]
| tước vị thêm =
| thêm =
Dòng 20:
| kế nhiệm = [[Sĩ Cát Xạ]]
| kiểu kế nhiệm =
| chức vị 1 = Chính khanh [[tấn (nước)|nước Tấn]]
| chi tiết chức vị 1 =
| tại vị 1 = [[509 TCN]]-[[501 TCN]]
Dòng 58:
| nơi mất = Trung Quốc
}}
'''Sĩ Ưởng''' ([[chữ Hán]]: 士鞅, [[bính âm Hán ngữ|bính âm]]: Shì Yǎng) hay '''Phạm Ưởng''' (范鞅), tức '''Phạm Hiến tử''' (范献子), là vị tông chủ thứ 4 của [[phạm (họ)|họ Phạm]], một trong [[lục khanh|lục khanh nước Tấn]] thời [[Xuân Thu]] trong [[lịch sử Trung Quốc]].
Sĩ Ưởng là con của [[Phạm Tuyên tử|Sĩ Mang]], tức Phạm Tuyên tử, vị tông chủ thứ 3 của họ Phạm.
==Xung đột với họ Loan==
Năm [[559 TCN]], [[Tấn Điệu công]] hội 13 nước [[chư hầu]] là [[Tề (nước)|Tề]], [[Tống (nước)|Tống]], [[Lỗ (nước)|Lỗ]], [[Vệ (nước)|Vệ]], [[Trịnh (nước)|Trịnh]], [[Tào (nước)|Tào]], [[Cử (nước)|Cử]], [[Trâu (nước)|Chu]], [[Đằng (nước)|Đằng]], [[Tiết (nước)|Tiết]] (薛), [[
Năm [[556 TCN]], [[Tề Linh công]] lấn chiếm biên giới phía bắc [[lỗ (nước)|nước Lỗ]]. Tấn Bình công sai cha con Sĩ Ưởng và [[Tuân Yển]] tập hợp quân các nước [[chư hầu]] đánh Tề, giành thắng lợi.
Năm [[552 TCN]], Loan Yểm chết, con của Loan Yểm với Phạm Kì (con [[Sĩ Mang]], chị Sĩ Ưởng) là [[Loan Doanh]] lên thế tập.
Sĩ Ưởng vốn mang lòng thù oán họ Loan, bèn gièm pha với [[Tấn Bình công]] rằng [[Loan Doanh]] có ý làm phản, [[Loan Doanh]] sợ tội bèn chạy sang [[tề (nước)|nước Tề]], nương nhờ [[Tề Trang công (Quang)|Tề Trang công]]<ref>Sử kí, Tề thế gia</ref>.
Năm [[550 TCN]], Tề Trang công giúp quân cho [[Loan Doanh]] lẻn về thành Khúc Ốc; vua Tề mang quân theo sau, tiến tới núi Thái Hàng, vào Mãnh Môn.
Dòng 87:
==Nhận của đút lót==
Năm [[517 TCN]], [[Lỗ Chiêu công]] mâu thuẫn với các họ quý tộc trong nước, bị [[Quý tôn Ý Như]] đuổi, phải bỏ chạy sang [[tề (nước)|nước Tề]]. Năm [[516 TCN]], [[Vệ Linh công]] và [[Tống Cảnh công]] sai sứ sang [[Tấn (nước)|Tấn]], đề nghị vua Tấn giúp Lỗ Chiêu công trị tội họ Quý. Quý tôn Ý Như bèn sai sứ sang đút lót cho Sĩ Ưởng nhờ giúp. Sĩ Ưởng tâu với [[Tấn Khoảnh công]] rằng họ Quý không có lỗi. Vì vậy nước Tấn không giúp Lỗ Chiêu công.<ref name="Sử kí, Tấn thế gia">Sử kí, Tấn thế gia</ref>
Năm [[511 TCN]], thấy [[Tấn Định công]] lại muốn giúp [[Lỗ Chiêu công]] về nước, [[Quý tôn Ý Như]] tiếp tục đến đút lót cho Sĩ Ưởng và [[Tuân Lịch]], các đại phu nước Tấn lại nói giúp họ Quý nên Tấn Định công cũng không giúp Lỗ Chiêu công, khiến vua Lỗ đến hết đời vẫn không được về nước.
Dòng 94:
Năm [[509 TCN]], Chính khanh Trung quân tướng nước Tấn là [[Ngụy Thư]] triệu tập các đại phu xây thành cho nhà Chu, trên đường về thì bệnh mất, Sĩ Ưởng lên kế tập làm Chính khanh Trung quân tướng.
Năm [[506 TCN]], [[Sái Chiêu công]] không chấp nhận hối lộ tướng quốc [[sở (nước)|nước Sở]] là Nang Ngõa, bị bắt giữ 3 năm, nên oán Nang Ngõa<ref>Sử kí, Quản Sái thế gia</ref>, xin [[Tấn Định công]] đem quân giúp mình đánh Sở. Sĩ Ưởng hội chư hầu ở Chiêu Lăng định đánh Sở, tuy nhiên đại phu [[Tuân Dần]] (Trung Hàng Dần) lại đòi hối lộ Sái Chiêu công, vua Sái không chịu, Tuân Dân bèn khuyên Sĩ Ưởng không nên đánh Sở, Sĩ Ưởng rút quân về<ref name="Sử kí, Tấn thế gia"/>.
Năm [[501 TCN]], Sĩ Ưởng qua đời. Con ông là [[Sĩ Cát Xạ]] lên thế tập.
Dòng 104:
*[[Quý tôn Ý Như]]
==Tham khảo==
*[[Sử ký Tư Mã Thiên|Sử kí Tư Mã Thiên]], các thiên
**''Tấn thế gia''
**''Tề Thái công thế gia''
|