Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thành hoàng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 5:
[[Hình:Sắc thần thời Tây Sơn.jpg|nhỏ|phải|250px|Sưu tập các sắc phong thần Thành hoàng thời [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn]], hiện trưng bày trong Bảo tàng Tây Sơn ([[Bình Định]]).]].
'''Thành hoàng''' xuất phát từ chữ Hán: ''Thành'' là cái thành, ''hoàng'' là cái hào bao quanh cái thành; và khi ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành<ref>Theo ''Thờ Thần hoàng - biểu tượng tâm linh của nông dân [[An Giang]]'', tr. 46.</ref>.
Nhà văn [[Sơn Nam (định hướng)|Sơn Nam]] cho biết thêm: ''Ông thần ở đình làng gọi là thần Thành hoàng, cai quản khu vực trong khung thành. Thoạt tiên là thần ngự trị nơi thị tứ, sau áp dụng (cả) nơi thôn xóm, (vì) vẫn có điếm canh bố trí bao quanh...''
 
Cũng theo Sơn Nam, thần Thành hoàng, theo thông lệ, thờ thần đàn ông, vì khí Dương đem sức mạnh cho muôn loài, muôn vật.<ref>Theo Sơn Nam, ''Nói về miền Nam ''[http://www.1080vietnam.com/stories/Detail.aspx?Channel=91&Article=35692&ContentGroupID=221610].</ref> Và gọi ông ''Thần hoàng'' là sai nghĩa, vì cái tên này chỉ là thứ nghi lễ ''đốt tờ giấy vàng'', tức bản sao sắc phong do nhà vua tặng cho cha mẹ, ông bà đã qua đời của quan chức cao cấp thời phong kiến; và tục này ở trong [[Nam Bộ Việt Nam|Nam Bộ]] không có<ref>Sơn Nam, ''Đình miếu & lễ hội dân gian'' (tr. 19). [[Đào Duy Anh]] gọi tục này là ''Phần hoàng'' (''Việt Nam văn hóa sử cương''. Nxb Bốn Phương, [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]], 1961, tr. 201).</ref>.
 
Bởi vậy, khi trích lại đoạn viết về tục "thờ thần" ở trong sách [[Việt Nam phong tục]] của [[Phan Kế Bính]], nhà văn Sơn Nam đã sửa từ "Thần hoàng" ra "Thành hoàng"<ref>Xem Sơn Nam, ''Thuần phong mỹ tục Việt Nam''(tr. 317).</ref> cốt để người đọc không còn lầm lẫn giữa hai thứ.
Dòng 18:
Sách ''Việt Nam phong tục'' chép:
:''Xét về cái tục thờ Thần hoàng (hiểu là thần Thành hoàng) này từ trước đời [[Tam Quốc]] ([[Trung Quốc]]) trở về trước vẫn đã có, nhưng ngày xưa thì nhà vua nhân có việc cầu đảo gì mới thiết đàn cúng tế mà thôi. Đến đời [[nhà Đường]], Lý Đức Dụ làm tướng, mới bắt đầu lập miếu Thần hoàng ở [[Thành Đô]]; kế đến [[nhà Tống]], [[nhà Minh]], thiên hạ đâu đâu cũng có lập miếu thờ.''
:''Nước ta thuở bấy giờ đang lúc nội thuộc, tục [[Trung Quốc|Tàu]] truyền sang đến bên này, kế đến [[nhà Đinh|Đinh]], [[nhàNhà|Lê]] thì việc thờ quỷ thần đã thịnh hành rồi.''
:''Nhưng cứ xét cái chủ ý lúc trước, thì mỗi phương có danh sơn (ngọn núi có tiếng), đại xuyên (sông lớn); triều đình lập miếu thờ thần sơn xuyên (núi sông) ấy để làm chủ tể (người đứng đầu) cho việc ấm tí một phương thôi. Kế sau, triều đình tinh biểu (làm cho thấy rõ công trạng, tiết tháo) những bậc trung thần nghĩa sĩ và những người có công lao với nước, thì cũng lập đền cho dân xã ở gần đấu thờ đấy. Từ đó dân gian lần lần bắt chước nhau, chỗ nào cũng phải thờ một vị để làm chủ tể trong làng mình...Dân ta tin rằng: Đất có Thổ công, sông có Hà bá; cảnh thổ nào phải có Thần hoàng ấy; vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho dân, vì thế mỗi ngày việc thờ thần một thịnh...''<ref>''Việt Nam phong tục'', sách đã dẫn, tr.78-79. Những chữ trong ngoặc do người soạn chua thêm.</ref>
Còn ở trong văn học Việt, theo các nhà nghiên cứu, thì việc thờ Thần hoàng được đề cập lần đầu tiên ở bài ''Chuyện thần Tô Lịch'' trong sách [[Việt điện u linh tập|Việt điện u linh]]<ref>Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng tác giả của ''Việt điện u linh'' là [[Lý Tế Xuyên]], người đời [[nhà Trần]]. Ông soạn sách này vào năm 1329 (''Việt điện u linh'', tr. 6. và ''Từ điển văn học'' (bộ mới), Nxb Thế giới, 2004, tr. 1994.</ref>:
:''Thời Đường Mục Tông, niên hiệu Trường Khánh thứ 2 (năm 822) tên Đô hộ Lý Nguyên Hỷ (hoặc Gia) thấy ngoài cửa bắc thành [[Long Biên]] có một dòng nước chảy ngược mà địa thế khả quan, mới tìm khắp, chọn một nơi cao ráo tốt, để có dời phủ lỵ đến đó...Nhân dịp ấy, y mới giết trâu đặt rượu, mời khắp các vị kỳ lão hương thôn đến dùng và thuật rõ là muốn tâu vua Tàu xin phụng Vương (ý nói đến thần [[sông Tô Lịch]]) làm Thành Hoàng. Trên dưới đều đồng lòng...Đến khi [[Cao Biền]] đắp [[hoàng thành Thăng Long|thành Đại La]], nghe đủ sự linh dị, thì lập tức sắm lễ điện tế, dâng cho hiệu là Đô Phủ Thành Hoàng Thần Quân. Đời [[Lý Thái Tổ]] lúc dời đô, thường mộng thấy một cụ đầu bạc, phảng phất trước bệ rồng...(Sau khi hỏi rõ lai lịch) nhà vua liền khiến quan Thái Chúc (chức quan lo việc cầu đảo phúc lành) đưa rượu chè đến tế, phong làm Quốc Đô Thăng Long Thành Hoàng Đại Vương. Dân cư (đến) cầu đảo hay thề nguyền điều chi, thì lập tức họa phúc linh ứng ngay...''<ref>''Việt điện u linh'', tr. 104-105.</ref>
 
== Các thứ hạng ==
Dòng 30:
Phúc Thần có ba hạng:
* '''Thượng đẳng thần''' là những thần danh sơn Đại xuyên, và các bậc thiên thần như Đông thiên vương<ref>Đông Thiên vương là Trì quốc thiên (持國天, sa. dhṛtarāṣṭra) có thân trắng, tay cầm đàn, tiếng đàn sẽ làm [[tinh thần|tâm thức]] con người trở nên thanh tịnh.</ref>, [[Thánh Gióng|Sóc thiên vương]], Sử đồng tử<ref>Chưa tra được. Không biết Phan Kế Bính có phải muốn nói đến [[Chử Đồng Tử]] hay không.</ref>, [[Liễu Hạnh công chúa]], [[Đức thánh Tam Giang]]...Các vị ấy có sự tích linh dị, mà không rõ tung tích ẩn hiện thế nào, cho nên gọi là Thiên thần. Thứ nữa là các vị nhân thần như: [[Lý Thường Kiệt]], [[Trần Hưng Đạo]]...Các vị này khi sanh tiền có đại công lao với dân với nước; lúc mất đi, hoặc bởi nhà vua tinh biểu công trạng mà lập đền thờ hoặc bởi lòng dân nhớ công đức mà thờ. Các bực ấy đều có sự tích công trạng hiển hách và họ tên rõ ràng, lịch triều có mỹ tự bao phong làm Thượng đẳng thần.
 
* '''Trung đẳng thần''' là những vị thần dân làng thờ đã lâu, có họ tên mà không rõ công trạng; hoặc là có quan tước mà không rõ họ tên, hoặc là những thần có chút linh vị, tới khi nhà vua sai tinh kỳ đảo võ, cũng có ứng nghiệm thì triều đình cũng liệt vào tự điển, mà phong làm Trung đẳng thần.
Dòng 51:
Như trên đã nói, thần Thành hoàng dù có hay không có họ tên, lai lịch; và dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng & đều mang tính chất chung là ''hộ quốc tỳ dân'' (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó. Vai trò trên của thần còn có ý nghĩa hơn nữa, nhất là đối với những cư dân từ miền ngoài vào khai khẩn vùng đất hoang Nam Bộ, vì lẽ họ đã gặp không ít khó khăn do thiên tai địch họa, do thú dữ hoành hành...Điều đó có nghĩa, thần Thành hoàng đã trở thành một biểu tượng tâm linh; bởi theo họ, chỉ có thần mới có thể giúp cho ''mưa thuận gió hòa'', ''mùa màng tươi tốt''; giúp cho cuộc sống của họ ngày một thêm ổn định, thịnh vượng.
Hiểu được nhu cầu tâm linh của người dân, cộng thêm ý muốn tạo lập một thiết chế văn hóa - tín ngưỡng chính thống của vương triều, để nhằm xóa bỏ dần tầm ảnh hưởng của các triều đại trước; nên dưới thời các vua đầu [[nhà Nguyễn]], cứ ba năm xét ban sắc phong thần một lần. Chỉ riêng năm 1852, có lẽ đoán trước thời nguy khổn của đất nước trước [[đế quốc thực dân Pháp|thực dân Pháp]], cho nên vua [[Tự Đức]] đã sai cấp đồng loạt 13.069 sắc phong cho cả nước (nhiều nhất là ở Nam Bộ), cùng với việc “Quốc điển hóa” sự thờ phụng; cũng chính là để nhanh chóng đạt được mục đích trên.<ref>Lược theo ''Văn hóa & tín ngưỡng Nam Bộ'' trong sách ''Hành hương đất phương Nam'', tr. 27.</ref>
== Xem thêm ==
* [[Đình|Đình làng]]
* [[Đình làng Nam Bộ]]
* [[Lễ Kỳ yên]]